Sáng ngày 05/12/2024, tại Hội trường số 9A Kim Mã Thượng -- Ba Đình - Hà Nội, Viện Nghiên cứu Con người đã tổ chức Hội thảo “Phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con người: kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam”. Đây là diễn đàn để các nhà nghiên cứu, nhà quản lý chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm về vấn đề phát triển kinh tế bền vững, đảm bảo công bằng xã hội, từ đó đưa ra những gợi ý chính sách phù hợp cho Việt Nam vì mục tiêu phát triển con người.
Chủ trì Hội thảo là PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Lê - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Con người. Hội thảo hân hạnh được đón tiếp các diễn giả khách mời là TS. Nguyễn Công Thảo - Viện Dân tộc học, TS. Trần Thị Hải Yến - Học viện Hành chính Quốc gia,ThS. Nguyễn Văn Chiến, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và diễn giả ThS. Bùi Thanh Phương là viên chức của Viện.

PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Lê chủ trì Hội thảo
Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Lê cho biết, do đặc thù văn hóa, lịch sử, chính trị, xã hội... quan niệm và tiêu chí về công bằng xã hội có sự khác biệt giữa các quốc gia. Tuy nhiên, để xây dựng cuộc sống tốt đẹp của con người, công bằng xã hội là mục tiêu mà tất cả các xã hội, dù cho theo chế độ xã hội nào, đường lối phát triển nào... cũng đều hướng đến. Khi nói đến công bằng xã hội, còn có nhiều quan điểm khác biệt và rất nhiều tranh luận... nhưng phải thấy rằng, cho đến khi nào con người còn có mơ ước phát triển và còn có khoảng các giữa các nhóm người thì công bằng xã hội luôn là bài toán mà những nhà hoạch định và thực hiện chính sách phải quan tâm.
Sau lời phát biểu của đồng chí Viện trưởng, các đại biểu tham dự Hội thảo đã được lắng nghe 04 tham luận:
Bài trình bày thứ nhất: “Những thách thức mang tính thời đại với trẻ em dân tộc thiểu số ở nước ta” thiểu số ở nước ta” của TS. Nguyễn Công Thảo, Viện Dân tộc học. Tác giả giới thiệu một số dạng thức bất bình đẳng mà trẻ em dân tộc thiểu số trong cả nước nói chung đang phải đối mặt, qua nghiên cứu thực trạng ở địa bàn tỉnh Sơn La. Trong bài viết, tác giả đã đưa ra khái niệm về bất bình đẳng là sự chênh lệch trong cơ hội tiếp cận lợi ích đối với các lợi ích, dịch vụ, quyền con người giữa các cá nhân, nhóm xã hội hay giữa các quốc gia; tái hiện bức tranh chung về bất bình đẳng với trẻ em dân tộc thiểu số ở nước ta; nêu ra những rủi ro mang tính thời đại của di cư lao động của tỉnh Sơn La. Từ năm 2020 đến năm 2024, trên địa bàn tỉnh Sơn La có 77 hộ/ 450 khẩu di cư tự do, chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông cũng như những thách thức đặt ra đối với người ra đi và người ở lại. Rủi ro và bất bình đẳng về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, hòa nhập cộng đồng… cho trẻ em. Sự bất bình đẳng còn gây ra rủi ro về bạo lực và xâm hại tình dục, buôn bán trẻ em và sự “hồi sinh” truyền thống (nạn tảo hôn, sinh con trong độ tuổi vị thành niên, hôn nhân cận huyết). Ngoài ra còn một số rủi ro về không gian mạng như bạo lực học đường, quan hệ tình dục tuổi vị thành niên, bỏ học, lao động trẻ em, đứt gãy gắn kết với cha mẹ... Kết thúc bài viết, tác giả còn đặt ra một số vấn đề cần suy nghĩ và thảo luận thêm như: Nghèo đói có phải là nguyên nhân chính khiến trẻ em dân tộc thiểu số phải đối mặt với bất bình đẳng? Vì sao chính sách đối với trẻ em dân tộc thiểu số chưa thể khỏa lấp được bất bình đẳng?
.jpg)
TS. Nguyễn Công Thảo, Viện Dân tộc học trình bày tham luận "Những thách thức mang tính thời đại với trẻ em dân tộc thiểu số ở nước ta"
Bài tham luận thứ hai: “Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số đáp ứng nhu cầu phát triển một số nhóm ngành, lĩnh vực: thực trạng, thách thức và hàm ý chính sách” do ThS. Nguyễn Văn Chiến, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam trình bày. Tác giả đã nêu thực trạng nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số ở nhiều góc độ khác nhau: góc nhìn sức khỏe, tinh thần, tiếp cận thông tin; góc nhìn giáo dục. Đồng thời, tác giả còn đánh giá thực trạng nguồn nhân lực qua sự tham gia lực lượng lao động của người dân tộc thiểu số trong một số nhóm ngành, chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp. Phần lớn là lao động người dân tộc thiểu số là lao động giản đơn và chưa qua đào tạo. Điều này dẫn đến năng suất lao động thấp và khó khăn trong việc áp dụng các kỹ thuật canh tác hiện đại. Thiếu kỹ năng chuyên môn làm cho sản phẩm nông nghiệp của họ khó cạnh tranh với sản phẩm từ các vùng khác. Lực lượng lao động dân tộc thiểu số trong lĩnh vực y tế và giáo dục còn mỏng, đặc biệt ở những vùng chất lượng giáo dục còn thấp. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin và tài chính ngân hàng, lao động người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ thấp hoặc gần như không có. Bài viết cũng chỉ ra các khó khăn, hạn chế về nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số như: các thói quen và tập tục văn hóa đã lạc hậu, tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp, khả năng tiếp cận và vận dụng công nghệ thông tin tạo ra rào cản trong việc tham gia vào nền kinh tế số …
Về thực trạng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực dân tộc thiểu số với hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông có học sinh bán trú và trường dự bị đại học dân tộc cũng tương đối nhiều và phát triển nhanh về quy mô và số lượng, với đầy đủ các cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Đồng thời, tác giả còn nêu lên thực trạng chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục các tỉnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Theo đó, đội ngũ giáo viên đã đáp ứng được nhu cầu dạy học. Tuy nhiên vẫn còn giáo viên hạn chế về sử dụng tiếng dân tộc thiểu số, ngoại ngữ, tin học... Tỉ lệ giáo viên là người địa phương và người dân tộc thiểu số còn thấp. Ngoài ra, bài viết còn nêu ra thực trạng, định hướng học tập và xu hướng nghề nghiệp của học sinh người dân tộc thiểu số; những khó khăn, bất cập và nguyên nhân của những khó khăn ấy trong công tác giáo dục phát triển nguồn nhân lực đối với người dân tộc thiểu số như: cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, kinh phí hỗ trợ ăn, ở cho học sinh bán trú, đội ngũ cán bộ quản lý, công tác tổ chức…
Trong bài viết của mình, tác giả còn đưa ra quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao người dân tộc thiểu số qua các kỳ Đại hội XI (2011), Đại hội XII (2016), Đại hội XIII (2021) và nhiều chính sách của Nhà nước đã ban hành từ trước năm 2020 đến nay.
Kết thúc bài viết, tác giả đã đề xuất giải pháp phát triển nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội như: hoàn thiện thể chế, ban hành các chính sách phát triển nguồn nhân lực; nâng cao nhận thức của xã hội, nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc thiểu số; chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên có trình độ; hỗ trợ học sinh phổ thông dân tộc nội trú được định hướng, tạo nguồn theo học các ngành, lĩnh vực; hỗ trợ sinh viên người dân tộc thiểu số học tập trong các ngành/nhóm ngành/lĩnh vực gắn với tạo động lực phát triển về kinh tế xã hội cho vùng dân tộc thiểu số…

ThS. Nguyễn Văn Chiến, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam trình bày tham luận “Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số đáp ứng nhu cầu phát triển một số nhóm ngành, lĩnh vực: thực trạng, thách thức và hàm ý chính sách”
Bài tham luận thứ ba là “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội thời kỳ hội nhập quốc tế” của ThS. Bùi Thanh Phương, Viện Nghiên cứu Con người. Bài viết phân tích bối cảnh và tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế. Theo tác giả, toàn cầu hóa với sự gia tăng các quan hệ kinh tế quốc tế đã mở ra cho các quốc gia cơ hội phát triển, nhưng cũng làm nảy sinh và làm trầm trọng hơn các vấn đề về cạnh tranh, chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Việc thực hiện công bằng xã hội và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những nhóm yếu thế, trở thành yêu cầu cấp thiết trong quá trình phát triển kinh tế của các nước, trong đó có Việt Nam. Trong xu thế tất yếu của thời đại, Đảng Cộng sản nhận định hội nhập không chỉ là một phần quan trọng mà còn là động lực xuyên suốt công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, phát triển kinh tế không đơn thuần là chạy theo tăng trưởng mà phải gắn liền với bảo đảm công bằng xã hội. Thông qua phân tích bối cảnh và tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế, những nguy cơ về xã hội mà Việt Nam phải đối mặt khi hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả tập trung làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm các luận điểm: Phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội có mối liên hệ mật thiết, không thể tách rời; Công bằng xã hội là động lực và mục tiêu của phát triển kinh tế; Tăng trưởng kinh tế là nền tảng cho công bằng xã hội; Thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển kinh tế; Công bằng xã hội không đồng nghĩa với bình quân chủ nghĩa và phân phối phù hợp là điều kiện để thực hiện công bằng xã hội. Các nội dung này được thực hiện nhất quán trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng, tạo ra sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội trong gần 40 năm đổi mới và đặt nền móng vững chắc cho Việt Nam tiến bước trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Đồng thời, bài viết cũng hướng đến mục tiêu là góp phần nhận diện và phản bác các luận điệu xuyên tạc, hạ thấp uy tín và phủ nhận những thành tựu của Đảng trong lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước.

ThS. Bùi Thanh Phương, Viện Nghiên cứu Con người trình bày tham luận "Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội thời kỳ hội nhập quốc tế”
Bài tham luận của TS. Trần Thị Hải Yến, Học viện Hành chính Quốc gia có tiêu đề: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chỉ số quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) tại Nam Định góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững tại địa phương”. Theo tác giả, PAPI là công cụ đánh giá hiệu quả công tác điều hành, thực thi chính sách, cung ứng dịch vụ công của các cấp chính quyền dựa trên đánh giá và trải nghiệm của người dân. Mục tiêu của PAPI là: góp phần cải thiện chất lượng hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các tổ chức công, đảm bảo quyền căn bản của con người; tạo cơ hội cho người dân tham gia đánh giá hiệu quả hoạt động của chính quyền, vận động chính quyền cải thiện cung cách phục vụ nhân dân; thúc đẩy việc tự đánh giá để đổi mới, tạo tập quán cạnh tranh lành mạnh và văn hóa học hỏi kinh nghiệm giữa các chính quyền địa phương. Bài viết đưa ra thực trạng chỉ số quản trị và hành chính công tại tỉnh Nam Định dựa trên các nội dung: sự tham gia của người dân ở cấp cơ sở, tính công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình với người dân, kiểm soát tham nhũng trong khu vực công, thủ tục hành chính công, cung ứng dịch vụ công, quản trị môi trường, quản trị điện tử. Tác giả đã chia sẻ số liệu về chỉ số PAPI của tỉnh Nam Định qua các năm, từ năm 2019 đến năm 2023 và vai trò của chỉ số PAPI trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đồng thời, tác giả còn nêu lên những nguyên nhân của hạn chế do công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức về chỉ số PAPI trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhất là người đứng đầu; chưa có sự quan tâm, phối hợp giữa các sở ngành và địa phương trong công tác cải thiện nâng cao chỉ số PAPI để phục vụ người dân; công tác tham mưu của các cơ quan chức năng cho UBND tỉnh chưa kịp thời; năng lực, trình độ, tinh thần thái độ phục vụ của một số cán bộ, công chức, viên chức ở một số sở, ban, ngành và địa phương chưa tốt; chưa được các cấp chính quyền đưa vào chỉ đạo cụ thể nên nhận thực của các cấp chính quyền còn hạn chế.
Trong phần cuối của bài viết, tác giả đã đưa ra một số giải pháp góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững tại địa phương là: Tăng cường phổ biến, quán triệt nâng cao nhận thức của cán bộ công chức viên chức, đặc biệt là vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan đơn vị; công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên chức đã được coi trọng; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật; thực hiện nghiêm và đầy đủ quy định về công khai, minh bạch trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thực hiện cải cách đồng bộ, hiệu quả các thủ tục hành chính liên quan đến người dân, tổ chức, doanh nghiệp; rà soát, kiến nghị cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát.

TS. Trần Thị Hải Yến, Học viện Hành chính Quốc gia trình bày tham luận “Thực trạng và giải pháp nâng cao chỉ số quản trị và hành chính công cấp tỉnh(PAPI) tại Nam Định góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững tại địa phương”
Sau phần trình bày của các diễn giả, Hội thảo diễn ra sôi nổi với nhiều câu hỏi, phát biểu tham luận liên quan đến chủ đề chính. Các đại biểu cho rằng, mặc dù có những chính sách hỗ trợ, nhưng thực tế vẫn còn nhiều khó khăn trong việc triển khai và thực hiện do sự khác biệt về văn hóa, điều kiện sống và khả năng tiếp cận của người dân ở các khu vực khó khăn. Một vấn đề khác được thảo luận là vai trò của khả năng và năng lực của người dân trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ công nghệ và chính sách xã hội. Các tham luận nhấn mạnh rằng, ngoài sự nỗ lực của chính quyền, việc trang bị kiến thức, kỹ năng cho người dân, đặc biệt là những người ở vùng sâu, vùng xa, là yếu tố then chốt để giúp họ tiếp cận và hưởng lợi từ các chính sách và công nghệ mới. Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đã chia sẻ những kinh nghiệm quốc tế về việc thực hiện công bằng xã hội, từ đó đưa ra những gợi mở và giải pháp cụ thể phù hợp với đặc thù của Việt Nam, nhằm thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm dân cư và thúc đẩy sự phát triển toàn diện trong xã hội.

Toàn cảnh Hội thảo
Phát biểu bế mạc, PGS. TS. Nguyễn Thị Hoài Lê - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Con người đã tổng kết những nội dung chính của hội thảo. Theo PGS. TS. Nguyễn Thị Hoài Lê, các chuyên gia đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau, đã đem đến cái nhìn các vấn đề công bằng xã hội một cách đa chiều và toàn diện. Điều đó cũng rất phù hợp với đặc thù và hướng nghiên cứu liên ngành và đa ngành của Viện Nghiên cứu Con người. Viện trưởng hy vọng trong tương lai, Viện sẽ tiếp tục nhận được quan tâm, hợp tác chặt chẽ của các cơ quan, nhà khoa học… để tạo ra những nghiên cứu đa ngành và liên ngành có ý nghĩa, bám sát thực tiễn hơn.
Bùi Thanh Phương