QUẢN LÝ ĐÀO TẠO NGHỀ THEO HƯỚNG TIẾP CẬN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
NGUYỄN VĂN HÙNG*
Đặt vấn đề
Trong thời đại ngày nay, thế giới bước sang kỷ nguyên của xã hội thông tin và cuộc cách mạng thông tin đã thúc đẩy sự ra đời của nền kinh tế tri thức1. Nền kinh tế tri thức có một số đặc điểm quan trọng, đó là: sản xuất tri thức, sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiêu biểu nhất; tỉ trọng GDP dịch chuyển dần từ sản xuất vật chất sang hoạt động dịch vụ, xử lý thông tin; lao động tri thức chiếm tỉ lệ cao (70 - 90%) và con người có cơ hội học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Cùng với sự ra đời của nền kinh tế tri thức là xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là một xu thế khách quan, vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh của các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia, tạo điều kiện cho sự ra đời các tổ chức kinh tế quốc tế và tạo điều kiện cho người lao động được làm việc trong những môi trường đa văn hóa.
Những đặc điểm cơ bản trên của nền kinh tế - xã hội hiện đại đã có tác động rất lớn đến các quốc gia trên thế giới về mọi mặt, trong đó có giáo dục. Hơn bao giờ hết, trong thời đại ngày nay, phát triển giáo dục đào tạo trở thành nhiệm vụ hàng đầu, là mục tiêu luôn đóng vai trò quan trọng của mỗi quốc gia. Để phát triển giáo dục đào tạo, cần có sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, trên nhiều phương diện khác nhau. Trong đó, trước tiên phải kể đến các chính sách mang tầm vĩ mô về quản lý giáo dục đào tạo.
Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý là một trong năm nhân tố của phát triển (vốn, nguồn lao động, khoa học kỹ thuật, giao lưu và quản lý). Quản lý giáo dục nằm trong quản lý văn hóa - tinh thần. Nói một cách đơn giản, quản lý giáo dục là quản lý các hoạt động đào tạo sao cho sản phẩm tạo ra (con người) đảm bảo phù hợp với mục tiêu đề ra và đáp ứng những yêu cầu khác nhau của xã hội. Quá trình quản lý giáo dục là quá trình thực hiện bốn chức năng: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra nhằm đưa hệ thống giáo dục tới các mục tiêu đề ra. Hoạt động quản lý giáo dục có thể được thực hiện theo một hệ thống có kế hoạch, có ý thức, có mục đích ở các cấp, các mắt xích khác nhau, trong đó, cao nhất là cấp bộ, nhỏ nhất là cấp trường.
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. Dạy nghề là một hình thức giáo dục chú trọng vào đào tạo thực hành và trực tiếp một nghề nhất định. Theo C.Mác, công tác dạy nghề phải bao gồm các thành phần: một là giáo dục trí tuệ, hai là giáo dục thể lực như trong các trường thể dục thể thao hoặc bằng cách huấn luyện quân sự, ba là dạy kỹ thuật nhằm giúp học sinh nắm vững những nguyên lý cơ bản của tất cả quá trình sản xuất, đồng thời biết sử dụng những công cụ sản xuất đơn giản nhất. Trong “Luật Dạy nghề”, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra khái niệm chung về giáo dục đào tạo nghề: “Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học”. Có thể nói, khái niệm này đã không chỉ dừng lại ở việc dạy nghề trang bị cho người học những kỹ năng cơ bản mà còn đề cập đến thái độ và kỷ luật của người lao động.
Có thể nói, xã hội càng phát triển, những tiến bộ khoa học công nghệ càng phát triển thì càng đặt ra những đòi hỏi cao về trình độ tay nghề của người lao động. Từ đó, vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo nói chung, nâng cao chất lượng đào tạo nghề nói riêng càng trở nên cấp thiết bởi vì đào tạo nghề chính là nguồn cung cấp lực lượng lao động chủ yếu cho sự phát triển của kinh tế, xã hội.
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, vai trò của đào tạo nghề đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội đã sớm được xác định và đào tạo nghề thực sự đã đóng góp một phần quan trọng trong việc cung cấp lực lượng lao động kỹ thuật tay nghề cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, dạy nghề có lịch sử phát triển lâu đời, gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại của nền văn minh lúa nước, của các làng nghề truyền thống và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm gần đây, phát triển và đổi mới toàn diện dạy nghề là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, được thể thiện trong các Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và trong các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị, của Ban chấp hành TW Đảng, trong đó đã xác định rõ vị trí quan trọng của đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Đặc biệt, Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 nêu rõ: Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân là một trong ba khâu đột phá chiến lược.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là chất lượng đào tạo nghề càng trở nên cấp thiết. Theo khảo sát mới được công bố gần đây của tổ chức Lao động Quốc tế, năng suất lao động của người Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất châu Á, chỉ bằng 1/2 người Philipin, 2/5 người Thái Lan và 1/15 người Singapo. Năng suất lao động ở đây không đánh giá về sự chuyên cần của người lao động mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khoa học kỹ thuật, khả năng sử dụng và phối hợp hài hòa của người lao động với máy móc, công nghệ. Người lao động Việt Nam phần nhiều chưa qua đào tạo và thiếu kỹ năng mềm. Điều này đã đặt ra nhiệm vụ trên mọi mặt của xã hội, không chỉ ở khía cạnh giáo dục nghề nghiệp mà cả ở khoa học công nghệ. Ở khía cạnh giáo dục, đặc biệt là đào tạo nghề thì có thể thấy trong những năm qua, ở nước ta đã tồn tại một nghịch lý lớn trái ngược với xu thế chung của thế giới. Trên thế giới, tỉ lệ lao động có trình độ được đào tạo Đại học - Trung cấp - Công nhân là 1 - 4 - 10 thì ở Việt Nam, tỉ lệ này là 1 - 1,3 - 0,92. Không chỉ mất cân đối về tỉ lệ lao động, chất lượng lao động của nước ta cũng bị đánh giá là kém. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (Word Bank, WB), nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94m,2… Cơ cấu phân bố lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó các ngành xã hội, luật, kinh tế, ngoại ngữ,... lại quá cao. Sự yếu kém về chất lượng, mất cân đối về tỉ lệ lao động một phần là do nhận thức của người dân mong muốn học làm thầy, không ai học làm thợ dẫn đến việc tỉ lệ cử nhân, kỹ sư ra trường thất nghiệp ngày càng nhiều mà người người vẫn đổ xô đi học đại học, cao đẳng chuyên nghiệp, quay lưng lại với các trường nghề. Một nguyên nhân nữa là nhiều lao động ở Việt Nam chưa xác định được vai trò của việc đào tạo, họ chấp nhận làm những công việc đơn giản với mức lương thấp tại các khu công nghiệp, các nhà máy mà không cần qua đào tạo. Ngoài ra, chất lượng tại các cơ sở đào tạo ở Việt Nam còn thấp, khoảng cách giữa việc đào tạo với việc làm sau khi tốt nghiệp còn khá xa. Những kiến thức được cung cấp tại các cơ sở đào tạo hầu như phục vụ được rất ít trong quá trình làm việc của người lao động hoặc người lao động phải học lại từ đầu. Tại các cơ sở đào tạo nghề, hiện tượng này cũng khá phổ biến khi máy móc, thiết bị phục vụ cho đào tạo hầu hết là cũ kỹ, lạc hậu hoặc không phù hợp với thực tế lao động. Với nền kinh tế, khoa học công nghệ còn kém phát triển, ngân sách đầu tư cho giáo dục nói chung, đào tạo nghề nói riêng còn hạn chế và việc thành lập ồ ạt các cơ sở giáo dục đào tạo khiến cho việc đầu tư dàn trải là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiện tượng này. Một nguyên nhân nữa cũng cần kể đến là do mối liên hệ giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp chưa được quan tâm nên hiện tượng thừa lao động ở lĩnh vực này nhưng lại thiếu lao động ở lĩnh vực khác, hoặc lao động thiếu kỹ năng làm một công việc nhất định theo yêu cầu của người sử dụng lao động trở nên phổ biến. Hiện nay, mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp đã được quan tâm, đẩy mạnh tuy nhiên hiệu quả vẫn chưa được như mong muốn.
Thực tế trên đã đặt ra yêu cầu lớn về đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề mà trước hết, cần đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo. Từ những đòi hỏi về chất lượng đào tạo, những yêu cầu đối với lĩnh vực đào tạo nghề, trên thế giới từ lâu đã có nhiều hình thức quản lý đào tạo xuất hiện và phát triển. Trong đó, quản lý đào tạo theo hướng đảm bảo chất lượng đã nhận được sự quan tâm và thể hiện được tính ưu việt trong việc đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Quản lý chất lượng đào tạo là một quá trình bao gồm nhiều yếu tố, bằng việc sử dụng các quy trình và cơ chế nhất định. Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế đã đưa ra khái niệm quản lý chất lượng, những nguyên tắc và quá trình của nó được công nhận trên phạm vi thế giới. Trong đó, quản lý chất lượng là các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng. Quản lý chất lượng gồm bốn quá trình (lập kế hoạch chất lượng, kiểm soát chất lượng, bảo đảm chất lượng và cải tiến chất lượng) và tám nguyên tắc (hướng vào khách hàng, sự lãnh đạo, sự tham gia của mọi người, cách tiếp cận theo quá trình, cách tiếp cận theo hệ thống, cải tiến liên tục, quyết định dựa trên sự kiện, và quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng).
Quản lý chất lượng đào tạo phải được thực hiện mọi khâu, mọi nơi, mọi lúc, từ đầu vào cho đến đầu ra. Vấn đề quản lý chất lượng đào tạo đã và đang nhận được sự quan tâm bởi nếu việc quản lý được thực hiện tốt sẽ nâng cao chất lượng đào tạo nói chung. Trong giáo dục, càng ngày người ta càng nhận ra chất lượng quyết định sự thắng lợi và kém chất lượng đồng nghĩa với sự thất bại. Trong những năm gần đây, ý nghĩa và tầm quan trọng của chất lượng đã được các nhà quản lý giáo dục chú trọng và phong trào quản lý chất lượng trong giáo dục cũng theo đó được phát triển. Quản lý chất lượng từ chỗ chỉ áp dụng trong các ngành sản xuất, kinh tế đã được áp dụng trong hoạt động giáo dục và ngày càng thể hiện được vai trò quan trọng của mình.
1. Các yếu tố tác động đến đảm bảo chất lượng đào tạo nghề
Hoạt động đào tạo là một hoạt động đặc biệt bởi đối tượng mà nó hướng đến, sản phẩm làm ra là con người. Chính vì vậy, hoạt động đào tạo chịu sự tác động lớn của nhiều yếu tố khác nhau cả bên trong và bên ngoài nhà trường. Đặc biệt, đào tạo nghề là lĩnh vực đặc biệt, trực tiếp đào tạo lao động kỹ thuật tay nghề cao phục vụ cho hoạt động sản xuất tạo ra của cải vật chất. Chính vì vậy, cũng như hoạt động đào tạo nói chung, đào tạo nghề cũng chịu sự tác động của nhiều yếu tố.
Thứ nhất là nhóm các yếu tố bên ngoài nhà trường: Yếu tố đầu tiên cần phải kể đến là luật pháp, các chính sách giáo dục và chính sách giáo dục đào tạo nghề. Như chúng ta đã biết, luật pháp là công cụ quản lý xã hội và mỗi công dân nhất thiết cần hiểu và tuân thủ luật pháp. Luật pháp nghiêm minh giúp duy trì sự công bằng, ổn định và tạo đà phát triển cho xã hội. Mỗi cơ sở đào tạo nghề cũng cần chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật trong mọi hoạt động, đồng thời cần dựa vào các văn bản pháp quy để giải quyết các nhiệm vụ quản lý và duy trì các hoạt động của mình.
Bên cạnh đó, ở bất kỳ quốc gia nào, sự phát triển của giáo dục đào tạo nói chung cũng phải gắn bó mật thiết với yêu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội. Theo quan điểm của Đảng ta, giáo dục đào tạo bên cạnh việc gắn bó với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, những tiến bộ của khoa học công nghệ còn phải gắn với yêu cầu củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh tổ quốc. Bởi vậy, người quản lý các cơ sở đào tạo cần căn cứ vào những yêu cầu chung mà tìm ra được những định hướng đúng đắn cho việc đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng đào tạo.
Thứ hai là các cơ chế quản lý giáo dục: Cơ chế quản lý đóng vai trò quan trọng, tiên quyết trong việc phát triển của giáo dục đào tạo nói chung. Khi cơ chế tốt, giáo dục đào tạo sẽ có cơ hội phát triển và đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Tại Việt Nam hiện nay, vấn đề cơ chế đối với giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề cần được quan tâm hơn lúc nào hết. Với thực tế về chất lượng yếu kém của lực lượng lao động, với sự quay lưng của người học đối với lĩnh vực đào tạo nghề, với việc mở rộng các chính sách ưu đãi cho giáo dục chuyên nghiệp (các trường chuyên nghiệp được thành lập ồ ạt, được tự chủ trong tuyển sinh,…), hơn lúc nào hết, việc điều chỉnh cơ chế cho đào tạo nghề đang trở thành vấn đề cấp thiết.
Thứ ba là sự phát triển của khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ là yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó, sự phát triển của giáo dục đào tạo cũng thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ. Đối với đào tạo nghề, một trong những yêu cầu quan trọng cần đạt được là người lao động sau khi tốt nghiệp có khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào lao động sản xuất và có khả năng tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Chính vì vậy, nếu cơ sở đào tạo nghề có khả năng tập trung nghiên cứu và nhanh chóng ứng dụng những thành tựu của công nghệ hiện đại vào giảng dạy và học tập, nếu hệ thống thiết bị máy móc được chú ý đầu tư trang bị sẽ thu hút được học sinh, sinh viên học nghề. Hơn nữa, chất lượng học sinh, sinh viên sau khi ra trường sẽ được nâng cao, thuận lợi cho việc tìm kiếm việc làm và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường lao động.
Thứ tư là nhu cầu của nền kinh tế hay nhu cầu của thị trường lao động: Có thể nói đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hoạt động đào tạo của nhà trường, đặc biệt là các trường dạy nghề. Mục tiêu quan trọng nhất của trường dạy nghề là lao động sau khi đào tạo đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Điều này đòi hỏi các trường dạy nghề cần có mối liên hệ mật thiết với các đơn vị, doanh nghiệp sử dụng lao động để có thể nắm bắt được nhu cầu về lực lượng hoặc kỹ năng, trình độ của người lao động. Điều này giúp hoạt động đào tạo được tập trung và lực lượng lao động sau khi ra trường được sử dụng hợp lý, tránh gây lãng phí hoặc mất cân đối về lao động. Đối với doanh nghiệp, thực hiện tốt việc phối hợp với các cơ sở đào tạo nghề giúp họ có thể tuyển được lao động tay nghề cao như mong muốn và không phải tiêu tốn tiền của, thời gian cho việc đào tạo và đào tạo lại lao động. Để làm được điều này, đòi hỏi mỗi cơ sở đào tạo cần không ngừng nghiên cứu những biến động của thị trường lao động để có những điều chỉnh về chính sách, chương trình đào tạo hợp lý. Thực tế trên thế giới, các nước phát triển như Mỹ, Đức, Nhật Bản đã thực hiện rất hiệu quả sự phối hợp giữa doanh nghiệp sử dụng lao động với cơ sở đào tạo. Như vậy, có thể nói, mặc dù mang tính khách quan song các yếu tố này có tác động và ảnh hưởng lớn đến việc đảm bảo chất lượng của các cơ sở đào tạo nghề bởi mục đích cuối cùng của đảm bảo chất lượng là phục vụ nhu cầu người học, nhu cầu xã hội.
Bên cạnh những yếu tố khách quan đó, không thể không kể đến những yếu tố chủ quan bên trong nhà trường bởi nhà trường chính là chủ thể của quá trình đảm bảo chất lượng.
Yếu tố đầu tiên cần phải kể đến là mục tiêu đào tạo của nhà trường: Xây dựng mục tiêu đào tạo chính là hoạt động đầu tiên của mỗi cơ sở đào tạo. Mục tiêu đào tạo của nhà trường được xây dựng dựa trên định hướng chung của các cơ quan quản lý, đồng thời có sự điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện về cơ sở vật chất của nhà trường, xu thế vận động của xã hội và điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương. Khi nhà trường xác định đúng được mục tiêu và xây dựng được mục tiêu đào tạo phù hợp sẽ là chìa khóa dẫn đường cho sự thành công trong công tác đào tạo.
Yếu tố thứ hai cần kể đến là chương trình đào tạo: Chương trình đào tạo chung của các cơ sở dạy nghề hiện nay được xây dựng dựa trên chương trình khung của Tổng cục Dạy nghề. Từ chương trình khung đó, mỗi cơ sở đào tạo có sự điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của mình. Tuy nhiên, những điều chỉnh đó phải tuân thủ theo những quy định chung và bảo đảm người học nghề sau khi ra trường phải đạt được những kỹ năng cần thiết theo quy định. Chương trình đào tạo cũng cần được đổi mới, cập nhật theo sự phát triển của khoa học công nghệ hay phù hợp với những yêu cầu của xã hội.
Yếu tố thứ ba là cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo: Hoạt động đào tạo nghề chú trọng đến việc rèn kỹ năng, tay nghề cho người học. Chính vì vậy, người học cần được tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất cho học tập và thực hành. Để xây dựng được cơ sở vật chất tốt, cần huy động từ nhiều nguồn lực khác nhau trong xã hội để từng bước chuẩn hóa, hiện đại hóa cơ sở, trang thiết bị phục vụ giảng dạy. Một trong những nội dung quan trọng của đảm bảo chất lượng là đảm bảo cho sản phẩm tạo ra phù hợp với mục tiêu và yêu cầu. Trong khi đó, nhu cầu xã hội và khoa học công nghệ đang phát triển từng ngày đòi hỏi sự phát triển tương ứng của hiệu quả đào tạo trong các trường dạy nghề, trong đó máy móc thiết bị cũng là một trong những yếu tố quan trọng và cần thiết.
Yếu tố thứ tư là chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên nhà trường. Máy móc, thiết bị có hiện đại đến đâu cũng không thể thay thế được vai trò của con người. Trong các cơ sở đào tạo nghề, mỗi thành viên chính là những người có trách nhiệm duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo. Những nhà quản lý có nhiệm vụ kiểm soát chất lượng đào tạo để kịp thời ngăn ngừa, điều chỉnh những dấu hiệu vi phạm. Khi mỗi thành viên có ý thức duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo, khi đội ngũ cán bộ quản lý có sự kiểm soát chặt chẽ, chất lượng đào tạo sẽ được bảo đảm như mục tiêu đã đề ra.
Như vậy, có thể nói đảm bảo chất lượng đào tạo nghề là một quá trình lâu dài, chịu ảnh hưởng, chịu tác động của nhiều yếu tố. Việc đảm bảo chất lượng chỉ được thực hiện hiệu quả khi từng bước trong quá trình được thực hiện tốt và được giám sát chặt chẽ, luôn duy trì mục tiêu đào tạo đã được đặt ra từ đầu.
2. Quá trình đảm bảo chất lượng trong các trường dạy nghề
Như trên đã nói, hoạt động đảm bảo chất lượng trong giáo dục đào tạo gồm ba quá trình: quản lý chất lượng bên trong cơ sở đào tạo, tự đánh giá và đánh giá ngoài. Quá trình đảm bảo chất lượng bao giờ cũng được bắt đầu từ sự quản lý chất lượng bên trong cơ sở giáo dục đào tạo. Hoạt động quản lý chất lượng bên trong cơ sở đào tạo được tiến hành trước hết là chủ trương của nhà trường phải phù hợp với mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, nguồn lực của nhà trường, phù hợp với chương trình đào tạo, phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và của địa phương, đồng thời có sự phối hợp giữa các đơn vị đào tạo. Ở Việt Nam hiện nay, đối với các trường dạy nghề, mục tiêu về giáo dục đào tạo đã được thể hiện trong Luật Dạy nghề: “Đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Đảng ta đã xác định mục tiêu giáo dục của nước ta trong thời kỳ mới là “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả;… Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.
Chính vì vậy, đối với mỗi cơ sở đào tạo nghề, việc hoạch định chính sách, mục tiêu đào tạo cũng phải căn cứ vào những quy định, mục tiêu chung của Nhà nước, của cơ quan quản lý cấp trên. Bên cạnh đó, cũng cần căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường về vật tư thiết bị, về nguồn lực tài chính, cán bộ quản lý, giáo viên để có những điều chỉnh cho phù hợp.
Ngoài ra, mỗi cơ sở đào tạo nghề cần duy trì mối liên hệ với từng địa phương, địa bàn hoạt động của mình bởi đào tạo nghề là hoạt động nhằm cung cấp lực lượng lao động trực tiếp tham gia vào sản xuất nên nhà trường cần có mối liên hệ để kịp thời nắm bắt nhu cầu của thị trường lao động và xu thế phát triển kinh tế, xã hội của địa phương để có những điều chỉnh về giáo dục đào tạo cho phù hợp bởi mục tiêu quan trọng nhất của đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng là người học sau khi tốt nghiệp có thể tìm được việc làm đúng chuyên môn, đáp ứng được những nhu cầu khác nhau của nhà tuyển dụng và người sử dụng lao động.
Từ đó, có thể thấy rằng trong quá trình đảm bảo chất lượng, vai trò của nhà trường được đề cập đến đầu tiên và quan trọng nhất. Một cơ sở đào tạo được xem là có chất lượng, hoạt động đào tạo được xem là thành công trước hết phải đảm bảo được mục tiêu, nhiệm vụ mà cơ sở đó đặt ra từ đầu và được công khai với người học, đáp ứng nhu cầu của người học.
Trong quá trình hoạt động của mình, các cơ sở đào tạo nghề cần có sự đánh giá các sản phẩm theo các chuẩn mực nhất định. Các cơ sở có thể sử dụng các hình thức đánh giá khác nhau để xem xét hiệu quả hoạt động của mình. Hoạt động tự đánh giá đóng vai trò quan trọng, giúp cơ sở đào tạo tự nhận biết mình đã làm được gì và chưa làm được gì so với mục tiêu được đặt ra từ đầu. Chính vì vậy, việc tự đánh giá đòi hỏi sự trung thực, thẳng thắn, công khai. Nó khẳng định vị trí của cơ sở đào tạo đó trong hệ thống đào tạo nói chung và chứng tỏ rằng cơ sở đào tạo đó có khả năng tự chịu trách nhiệm trước người học, trước những người sử dụng lao động và trước toàn bộ xã hội. Khi mỗi cơ sở đào tạo thực hiện tốt hoạt động tự đánh giá, họ có cơ hội tự hoàn thiện cao hơn, đồng thời, tạo được lòng tin đối với người học, người sử dụng lao động và xã hội.
Sau khi có kết quả tự đánh giá của cơ sở đào tạo nghề, đoàn đánh giá hay đoàn thẩm định ngoài sẽ được cử xuống để xem xét, so sánh kết quả tự đánh giá với thực chất công việc của cơ sở đó. Dựa vào kết quả đánh giá của đoàn thẩm định ngoài, chứng nhận kiểm nhận có thể được cấp cho cơ sở đó. Hoạt động kiểm định ngoài có thể được thực hiện bởi một cơ quan của nhà nước, của bộ trực tiếp quản lý cơ sở đào tạo, cũng có thể là của một tổ chức tư nhân. Cũng giống như hoạt động tự kiểm định, hoạt động kiểm định ngoài mang tới cho cơ sở đào tạo hiệu quả lớn, giúp nhà trường nâng cao được vị thế, giúp tạo lòng tin cho người học, cho người sử dụng lao động.
Hiện nay, ở Việt Nam, quá trình đảm bảo chất lượng của các cơ sở đào tạo đang được chú trọng với mục tiêu đưa đào tạo nghề phát triển đúng với tầm vóc và đóng góp được nhiều hơn cho sự phát triển chung của kinh tế, xã hội. Với việc ra đời của Cục khảo thí và kiểm định chất lượng thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2008, các trường dạy nghề cũng đã được đánh giá theo những bộ tiêu chí riêng dành cho lĩnh vực đào tạo nghề. Cho đến nay, việc tự kiểm định, đánh giá chất lượng định kỳ hàng năm vẫn được tiến hành tại các cơ sở đào tạo nghề và định kỳ 5 năm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thành lập các đoàn kiểm định ngoài nhằm đánh giá hoạt động đào tạo của các trường dạy nghề để có sự điều chỉnh và kế hoạch đầu tư phù hợp.
3. Các giải pháp quản lý đảm bảo chất lượng trong đào tạo nghề
Từ những phân tích trên, có thể thấy để có thể thực hiện tốt việc quản lý chất lượng đào tạo nghề theo hướng đảm bảo chất lượng chính là thực hiện tốt và đảm bảo các mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của nhà trường, cùng với đó là sự kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động nhằm mục đích duy trì và nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo.
Thứ nhất là, các trường dạy nghề cần xác định rõ mục tiêu phát triển, sứ mệnh, tầm nhìn. Để thực hiện có kết quả mục tiêu giáo dục đào tạo, lãnh đạo nói chung và hiệu trưởng nói riêng phải nắm vững những nhiệm vụ của nhà trường trong hệ thống giáo dục. Mục tiêu đó bao gồm mục tiêu đào tạo và mục tiêu phát triển. Mục tiêu đào tạo là những yêu cầu, nhiệm vụ cần đạt được của nhà trường, mục tiêu phát triển là mục tiêu liên quan đến quy mô giáo dục của nhà trường. Mục tiêu phát triển thay đổi theo từng giai đoạn khác nhau. Mỗi cơ sở đào tạo ở một cấp học, ở một lĩnh vực đào tạo, ở một thời kỳ, một địa phương khác nhau đều cần thiết phải xây dựng mục tiêu đào tạo riêng. Mục tiêu đào tạo được cụ thể hóa từng năm qua những kế hoạch năm. Mặc dù là kế hoạch năm song đều hướng đến một mục tiêu chung của nhà trường. Việc thực hiện kế hoạch của năm trước là cơ sở cho việc phát triển chất lượng và điều chỉnh kế hoạch cho năm sau.
Việc xác định được mục tiêu phát triển, tầm nhìn đòi hỏi mỗi cơ sở giáo dục phải thực hiện tốt việc quản lý nội dung, chương trình đào tạo. Đây chính là quản lý việc thực hiện nội dung, chương trình trong suốt quá trình đào tạo thông qua hoạt động giảng dạy và học tập sao cho kế hoạch đào tạo được thực hiện một cách đầy đủ theo đúng tiến độ và đạt được yêu cầu đề ra. Công cụ chủ yếu của công tác quản lý việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo chính là chương trình khung, chương trình chi tiết, giáo trình và hệ thống văn bản pháp quy. Đây là cơ sở để đánh giá chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy và học, là cơ sở cho sự kiểm tra, đánh giá hiệu quả đào tạo đồng thời qua đó, có thể phát hiện những sai sót để có sự điều chỉnh kịp thời.
Bên cạnh đó, các trường cần xác định rõ sứ mệnh và tầm nhìn cho tương lai cũng như định hướng phát triển để có sự chuẩn bị về lực lượng cán bộ viên chức, máy móc thiết bị, khoa học công nghệ và các cơ chế đảm bảo chất lượng đào tạo.
Để thực hiện được yêu cầu này, các trường cần tăng quy mô tuyển sinh hàng năm. Hoạt động tuyển sinh bao gồm công tác quảng bá, tuyên truyền về hình ảnh, hoạt động của nhà trường, thông báo chỉ tiêu, điều kiện, quản lý hồ sơ, quản lý quá trình tuyển sinh đúng quy chế, quy định. Đối với các trường dạy nghề, hoạt động tuyển sinh đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là công tác quảng bá, tuyên truyền về vai trò của học nghề vì trong điều kiện hiện nay, việc tuyển sinh học nghề đang gặp phải nhiều khó khăn từ nhận thức của xã hội, từ các quy chế đối với công tác đào tạo và đào tạo nghề. Bên cạnh đó, trong quá trình tuyển sinh, nhà trường cần đảm bảo đúng quy chế, quy định, tuyển sinh đúng đối tượng, phù hợp với các trình độ đào tạo khác nhau của nhà trường. Quản lý hoạt động tuyển sinh chính là quản lý đầu vào của quá trình đảm bảo chất lượng trong đào tạo.
Ngoài ra, nhà trường cũng cần nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học theo hướng chuyên sâu, tăng cường chuyển giao công nghệ. Để nâng cao được năng lực nghiên cứu theo hướng chuyên sâu, các trường cần đẩy mạnh việc ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ vào giảng dạy, nghiên cứu, hoàn thiện các loại văn bản pháp lý quy định về quyền lợi và trách nhiệm của giảng viên trong công tác nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, cần có các chính sách ưu đãi đối với các đề tài và tác giả nghiên cứu, có thể mua lại sản phẩm hoặc tạo điều kiện cho việc sử dụng sản phẩm của hoạt động nghiên cứu khoa học vào giảng dạy, học tập. Ngoài ra, các trường cần tích cực xây dựng các trung tâm ứng dụng khoa học công nghệ, tạo điều kiện cho người học có thể được thực hành nâng cao tay nghề.
Thứ hai là, để thực hiện tốt mục tiêu phát triển, sứ mệnh, tầm nhìn, nhà trường cần tăng cường việc thực hiện đồng bộ các chức năng quản lý trong quá trình đào tạo. Một nguyên tắc quan trọng trong quản lý đảm bảo chất lượng chính là đánh giá theo quá trình. Trong quản lý, hoạt động này bao gồm việc xây dựng kế hoạch, tổ chức phân công giao nhiệm vụ, chỉ đạo, giám sát, điều hành thực hiện và kiểm tra đánh giá. Từng khâu trong quá trình này cần được thực hiện tốt, có hiệu quả, chất lượng và cần được giám sát chặt chẽ nhằm kịp thời phát hiện, khắc phục và sửa chữa những sai sót có thể xảy ra.
Để thực hiện tốt yêu cầu này, các tổ chức, đơn vị trong nhà trường cần căn cứ vào nhiệm vụ chung mà xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình hành động cụ thể cho mình và định kỳ hàng tháng, hàng quý, báo cáo kết quả hoạt động tới lãnh đạo nhà trường. Bên cạnh đó, nhà trường cũng cần thành lập hội đồng kiểm tra hoặc thanh tra, giám sát các hoạt động của đơn vị, tổ chức đoàn thể và tiếp nhận, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của cá nhân hoặc tập thể. Tại các trường đào tạo nghề, phòng Công tác học sinh, sinh viên chính là nơi tiếp nhận và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của học sinh, sinh viên và ban Thanh tra nhân dân đảm nhiệm việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và kịp thời phản ánh để khắc phục những vấn đề nảy sinh trong nhà trường.
Ngoài ra, hàng năm, việc triển khai hội nghị Cán bộ viên chức để tổng kết hoạt động đào tạo năm học, bàn bạc, đóng góp ý kiến đề ra phương hướng, nhiệm vụ năm học mới vừa là cơ hội để cán bộ viên chức được thể hiện trách nhiệm đối với nhiệm vụ chung, vừa là cơ hội để lãnh đạo nhà trường tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cán bộ viên chức.
Thứ ba là, phân cấp quản lý để mỗi đơn vị, tổ chức, cá nhân trở thành người tự quản lý quá trình thực hiện kế hoạch của mình. Bất kỳ cá nhân ở cương vị công tác nào cũng phải trở thành người tự quản lý hiệu quả công việc của mình. Yếu tố này cũng nhằm đảm bảo tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của từng đơn vị, từng cá nhân.
Để thực hiện tốt yêu cầu này, về phía lãnh đạo nhà trường cần phân công đúng người, đúng việc, phù hợp với khả năng của từng người để có cơ hội phát huy được năng lực của bản thân. Bên cạnh đó, cần đưa ra những văn bản quy định cụ thể về việc đánh giá hiệu quả công tác của từng cá nhân một cách cụ thể, chính xác.
Đối với các đơn vị trực thuộc, cần căn cứ vào kế hoạch chung của nhà trường để xác định và xây dựng kế hoạch cụ thể của đơn vị mình, tổ chức phân công đến từng cá nhân trong đơn vị, chỉ đạo thực hiện và giám sát quá trình cũng như kết quả thực hiện.
Cuối tháng, cuối quý, cuối năm, cá nhân tự đánh giá hiệu quả công việc, các đơn vị trực thuộc xem xét, kiểm tra và báo cáo lên lãnh đạo nhà trường. Để thực hiện tốt điều này đòi hỏi bản thân mỗi cá nhân cần có sự tự giác, trung thực, cầu tiến. Bên cạnh đó, lãnh đạo các đơn vị cũng cần có sự sâu sát trong quản lý, điều hành, sự công bằng trong nhìn nhận, đánh giá.
Thứ tư là, nâng cao chất lượng quản lý công tác đào tạo. Đào tạo nghề là nhiệm vụ cơ bản, quyết định sự tồn tại của trường dạy nghề. Trong đó, đào tạo nghề nhằm phát triển hệ thống kiến thức, kỹ năng thực hành và thái độ nghề nghiệp để tạo điều kiện cho cá nhân có cơ hội lao động bằng nghề được đào tạo và tự nuôi sống được bản thân, gia đình. Quản lý công tác đào tạo nghề thực chất là quản lý việc thực hiện mục tiêu, chương trình đào tạo, quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh, sinh viên.
Nhà trường quản lý các nghề đào tạo, hệ thống kế hoạch, chỉ tiêu tuyển sinh, đánh giá chất lượng đội ngũ, việc sử dụng các nguồn lực phục vụ đào tạo và tìm đầu ra cho lao động sau đào tạo.
Căn cứ vào chương trình khung đã được ban hành, các khoa xây dựng chương trình đào tạo, biên soạn giáo trình phù hợp với thực tế của khoa, của trường, của địa phương song vẫn đảm bảo đáp ứng những kỹ năng theo yêu cầu. Chương trình đào tạo, giáo trình cũng cần được điều chỉnh, được cập nhật cho phù hợp với những tiến bộ, những đổi thay của khoa học công nghệ. Sau khi các khoa đã xây dựng được chương trình, giáo trình chi tiết, nhà trường thành lập hội đồng thẩm định gồm những người có chuyên môn để đánh giá và quyết định đưa vào sử dụng trong hoạt động giảng dạy.
Ngoài việc quản lý chương trình, giáo trình, nhà trường cũng cần chú trọng quản lý hoạt động dạy của giáo viên bao gồm quản lý việc thực hiện chương trình dạy học và một số hoạt động phụ trợ như: nghiên cứu khoa học, sinh hoạt chuyên môn, tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Đối với các cơ sở đào tạo nghề, một trong những nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên là khả năng tự hoàn thiện và nâng cao kỹ năng, tay nghề, bắt kịp với những đổi thay của khoa học công nghệ. Vai trò của người giáo viên ở các trường dạy nghề giống như người thợ cả. Khi giáo viên bảo đảm được tay nghề thì mới có khả năng truyền đạt, đồng thời kiểm tra, uốn nắn học sinh ngay trong quá trình giảng dạy của mình để kịp thời phát hiện và sửa chữa những sai sót. Bên cạnh đó, hoạt động soạn giáo án bài giảng, thể hiện nội dung bài giảng trên lớp, tác phong sư phạm và phương pháp giảng dạy của giáo viên chính là việc cụ thể hóa mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Song song với hoạt động giảng dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh cũng cần được quản lý, điều chỉnh. Quản lý hoạt động học của học sinh được thực hiện cả trong giờ học, ở trường và ở nhà. Để giúp hoạt động của học sinh được tốt, thầy cô cần giáo dục cho học sinh tinh thần, thái độ học tập đúng đắn, xây dựng và thực hiện nề nếp, thói quen tự giác trong học tập và có các hình thức động viên, khuyến khích cũng như phê bình học sinh một cách đúng đắn để thúc đẩy quá trình cũng như hiệu quả học tập của học sinh.
Ngoài ra, cơ sở vật chất cũng là một trong những yếu tố quan trọng chi phối đến hiệu quả giảng dạy. Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học là hệ thống các phương tiện vật chất và kỹ thuật được sử dụng để phục vụ việc giáo dục, đào tạo. Quản lý cơ sở vật chất, thiết bị dạy học là tác động có mục đích của con người nhằm xây dựng, phát triển và sử dụng có hiệu quả hệ thống cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ công tác giáo dục và đào tạo. Nội dung cơ bản của quản lý cơ sở vật chất và thiết bị dạy học gồm: Xây dựng và bổ sung thường xuyên để hình thành một hệ thống hoàn chỉnh phục vụ giảng dạy, duy trì và bảo quản cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học một cách hiệu quả. Việc duy trì và bổ sung thường xuyên cơ sở vật chất, thiết bị dạy học được thực hiện qua việc vận động nhiều nguồn lực khác nhau đầu tư cho giáo dục và một trong những cách thức hiện nay đang được thực hiện phổ biến đó là xã hội hóa giáo dục. Từ việc vận động được các nguồn lực đó, nhà trường sẽ có điều kiện để bổ sung, hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ giáo dục đào tạo. Bên cạnh việc bổ sung cơ sở vật chất, việc bảo quản và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phục vụ và nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Tất cả những yếu tố này có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
Thứ năm là tạo mối liên kết chặt chẽ giữa nhà trường với các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp trong quá trình đào tạo. Có thể nói các doanh nghiệp là nơi khoa học công nghệ được cập nhật và được quan tâm với mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất. Hơn nữa, doanh nghiệp là nơi trực tiếp sử dụng lao động của nhà trường. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp cần được quan tâm phát triển. Khi nhà trường có mối liên kết với doanh nghiệp, nhà trường sẽ thuận lợi trong việc tìm hiểu nhu cầu của thị trường lao động, có điều kiện tìm hiểu những kỹ năng và ngành nghề cần lao động. Từ đó, có sự điều chỉnh trong chương trình đào tạo cho phù hợp để lao động sau khi ra trường đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Bên cạnh đó, hầu hết các trường dạy nghề không có điều kiện đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị. Chính vì vậy, việc liên kết với doanh nghiệp tạo điều kiện cho người học và cả đội ngũ giảng viên có cơ hội được tham quan, học hỏi hoặc thực hành ngắn hạn tại các doanh nghiệp để tiếp cận với công nghệ mới.
Đối với các trường dạy nghề, việc thành lập trung tâm tư vấn lao động và giới thiệu việc làm chính là cầu nối giữa nhà trường với doanh nghiệp. Trung tâm có nhiệm vụ tuyên truyền, quảng bá rộng rãi về chất lượng đào tạo của nhà trường đến các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và xã hội; liên hệ với doanh nghiệp để tìm hiểu về nhu cầu tuyển dụng.
Để làm được điều này, lãnh đạo nhà trường có thể ký hợp đồng đào tạo với doanh nghiệp, sau khi có hợp đồng thì cùng phối hợp xây dựng nội dung, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, hợp đồng sử dụng phương tiện kỹ thuật, giá thành đào tạo, tuyển sinh và sử dụng lao động.
Thứ sáu là quản lý hoạt động đánh giá kết quả và cấp phát văn bằng, chứng chỉ: quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập bao gồm việc tổ chức thi định kỳ, thi hết môn, thi tốt nghiệp và công nhận kết quả học tập của người học. Hoạt động này được thực hiện trước hết ở việc xây dựng các tiêu chuẩn và mục tiêu dạy học ở từng môn học nói riêng và cả khóa học nói chung, quản lý việc xác định hình thức, phương pháp và công cụ kiểm tra, đánh giá cho phù hợp. Bên cạnh đó, còn bao gồm cả quản lý việc ghi chép, lập và lưu giữ hồ sơ, sổ sách về kết quả học tập và cấp phát văn bằng chứng chỉ cho người học. Đây là hoạt động quản lý đầu ra của sản phẩm, là công đoạn cuối cùng của một quá trình sản xuất, là kết quả cuối cùng của rất nhiều hoạt động được thực hiện trước đó. Tại quá trình này, cơ sở đào tạo có cơ hội một lần nữa kiểm tra, đánh giá lại quá trình đào tạo của mình. Từ đó, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm, tìm ra cách thức khắc phục những tồn tại, hạn chế cho những hoạt động sau này.
Kết luận
Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phấn đấu thực hiện những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra, hệ thống các trường dạy nghề cần được chú trọng phát triển một cách bền vững ở nhiều trình độ khác nhau. Để đạt được điều đó, bản thân các trường dạy nghề cần đặt nhiệm vụ nâng cao chất lượng đào tạo thành ưu tiên số một và theo đó, đổi mới quản lý chất lượng đào tạo cũng cần được chú trọng. Việc áp dụng những phương pháp, cách thức quản lý cần căn cứ vào sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của xã hội và của cơ sở đào tạo đó.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, với những khó khăn mà các cơ sở đào tạo nghề đang phải đối mặt thì việc đổi mới về chính sách quản lý đang ngày càng trở nên cấp thiết. Thực tế cho thấy trong rất nhiều mô hình quản lý chất lượng đào tạo thì quản lý theo hướng đảm bảo chất lượng đã và đang thể hiện được nhiều ưu điểm.
Để thực hiện tốt việc áp dụng đảm bảo chất lượng trong quản lý đào tạo nghề có nhiều giải pháp khác nhau, cần được xem xét và thực hiện đồng bộ nhằm đạt được hiệu quả tối đa. Các giải pháp được thực hiện cũng cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng cơ sở đào tạo nghề trong từng thời điểm khác nhau. Bên cạnh việc áp dụng thực hiện, cần có sự đánh giá theo từng qúy, từng năm để kịp thời phát hiện những tồn tại, hạn chế, tìm cách khắc phục và có những điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển và đổi thay của tình hình xã hội.
Tài liệu tham khảo
-
|
Khiếu Quang Bảo (2012), “Giáo dục đào tạo Việt Nam đang ở mức nào của thế giới”, Tạp chí Truyền hình số VTC.
|
-
|
Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội (2006), Luật Dạy nghề.
|
-
|
C. Mác, Ph. Ăng-ghen (1995), Tuyển tập (tập 16), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
|
-
|
Nguyễn Đức Chính (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
|
-
|
Đại hội Đảng XI, Văn kiện.
|
-
|
Nguyễn Quang Giao (2010), “Đảm bảo chất lượng trong giáo dục đại học”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số 4.
|
-
|
Phan Minh Hiền (2012), “Phát triển đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu xã hội”, Luận án Tiến sĩ ngành Quản lý giáo dục, Hà Nội.
|
-
|
Cảnh Chí Hoàng, Trần Vĩnh Hoàng, “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển & Hội nhập.
|
-
|
Nguyễn Văn Hùng (2010), “Cơ sở khoa học và giải pháp quản lý đào tạo theo hướng đảm bảo chất lượng tại các trường đại học sư phạm kỹ thuật”, Luận án Tiến sĩ ngành Quản lý giáo dục.
|
-
|
Đặng Thành Hưng (2006), “Cơ hội và thách thức trong hội nhập quốc tế và hiện đại hóa giáo dục”, Tạp chí Giáo dục, Số 146, Hà Nội.
|
-
|
Phạm Xuân Khánh (2013), “Dạy nghề trình độ cao - kinh nghiệm từ các nước phát triển”, Tạp chí Nghề nghiệp & Cuộc sống, Số 7.
|
-
|
Trương Minh, “Học và dạy nghề ở Đức”, www.tienphong.vn.
|
-
|
Phạm Thành Nghị (1998), Lựa chọn mô hình bảo đảm chất lượng đại học, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.
|
-
|
Phạm Thành Nghị (2000), Quản lý chất lượng giáo dục đại học, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
|
-
|
Nhatban.net.vn, “Giáo dục dạy nghề ở Nhật Bản”.
|
-
|
Cao Văn Sâm, Đổi mới và phát triển dạy nghề - một số giải pháp đột phá nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
|
-
|
Thái Văn Thành (2007), Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường, Nxb. Đại học Huế.
|
-
|
Đào Thị Thiệm (2008), “Quản lý quá trình đào tạo nghề ở trường Cao đẳng nghề Hải Dương theo hướng tiếp cận lý thuyết quản lý đảm bảo chất lượng”, Luận văn Thạc sĩ ngành Khoa học giáo dục.
|
-
|
Nguyễn Minh Thuyết, Giáo dục văn hóa nghề vì phát triển bền vững.
|
-
|
Wikipedia Tiếng Việt, “Chất lượng và quản lý chất lượng”, Truy cập ngày 9/10/2014.
|
-
|
http://www.nhandan.com.vn/hangthang/kinh-te/item/339802-.html, Truy cập ngày 9/10/2014.
|
* ThS.; Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Thanh Hóa.
1 Nền kinh tế tri thức, hay là kinh tế dựa vào tri thức (Knowledge - Based Economy) là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD cho rằng: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối, sử dụng tri thức và thông tin" (OECD,1996). Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) định nghĩa: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế” (APEC, 2000).