MỘT SỐ VẤN ĐỂ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VÙNG TRUNG BỘ
NGUYỄN MINH ĐỨC*
HỒ PHAN LÂM TRƯỜNG**
Đặt vấn đề
Trung Bộ nước ta là vùng có lợi thế về địa kinh tế - xã hội thuận tiện cho quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Trung Bộ được biết đến không đơn thuần chỉ là nơi nổi tiếng có nhiều danh lam - thắng cảnh và di sản văn hóa, mà đây còn là vùng vừa ở vị trí trung điểm của tuyến Bắc - Nam, vừa có hành lang kinh tế Đông - Tây (phía Tây của vùng có một số cửa khẩu quốc tế ở vị trí quan trọng của đầu ra các tuyến thông thương từ Myanma qua Lào tới Việt Nam; còn phía Đông có dải bờ biển dài 1.759 km với nhiều vị trí có thể thiết lập cảng nước sâu rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển) và khi vận hành có thể dễ dàng tiếp cận các tuyến đường hàng hải quốc tế lớn từ Đông - Tây, nối các trung tâm phát triển lớn và năng động nhất của thế giới. Tuy nhiên, việc phát huy được các lợi thế trên cũng như nắm bắt được cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực mà lợi thế đó mang lại, thì vấn đề ưu tiên cần đặt ra đối với vùng - đó là phải phát triển nguồn nhân lực vùng (nhất là trí lực) có ý nghĩa hệ trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng.
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả đề cập đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ở vùng Trung Bộ qua góc nhìn trí lực là chủ yếu. Trí lực là yếu tố trí tuệ, năng lực và tinh thần, là tiềm lực sáng tạo nên các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần của con người trong lao động. Trí lực được biểu hiện cụ thể ở trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp,... nên nó giữ vai trò quyết định sự phát triển nguồn nhân lực.
Xuất phát từ bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng chủ đạo đối với sự phát triển của các quốc gia và thực tiễn đã và đang tiếp tục chứng minh rằng, thế thượng phong chỉ có thể mang lại cho quốc gia nào có nguồn nhân lực chất lượng cao hơn, đào tạo và phát triển được nguồn nhân lực tốt hơn. Phát triển nguồn nhân lực vốn được đặc trưng bởi toàn bộ sự lành nghề của dân cư trong mối quan hệ phát triển của đất nước (UNESCO), cũng như trong phát triển vùng. Phát triển nguồn nhân lực là tổng hợp quá trình truyền đạt và trang bị các kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, thay đổi quan điểm, nâng cao kỹ năng thực hành cho người lao động để họ có đủ khả năng phục vụ cho nhu cầu về lao động trong tương lai.
Chính quá trình phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ngày một cao là đồng hành với quá trình thúc đẩy công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) nhằm chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại,... để nâng cao năng suất lao động xã hội, cũng như hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, đẩy nhanh sự phats triển, rút ngắn và thu hẹp về khoảng cách tụt hậu so với các vùng khác, suy rộng hơn là giảm khoảng cách tụt hậu trong phát triển so với khu vực và quốc tế trong bối cảnh hội nhập.
1. Thực trạng một số vấn đề về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực vùng Trung Bộ
Một là, Nguồn nhân lực của Trung Bộ dồi dào và tập trung ở khu vực nông nghiệp và nông thôn, Trình độ nhân lực của vùng hiện còn thấp kém và thiếu hụt lớn về nguồn nhân lực có chất lượng cao, đồng thời lao động nông thôn đang đứng trước sức ép về việc làm và thu nhập bởi sự gia tăng tốc độ đô thị hóa theo chiều rộng và tốc độ CNH để phát triển các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế (KKT),... xu hướng ngày càng tăng về người lao động di cư từ vùng Trung Bộ đến các vùng kinh tế khác tìm kiếm việc làm đặt ra nguy cơ trực tiếp về sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng, cùng với bản thân cơ cấu lao động ở các ngành kinh tế chuyển dịch chậm và phân bố không đều giữa các địa phương nên chưa thể đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của vùng.
Bảng 1: Lực lượng lao động phân theo vùng kinh tế - xã hội
Vùng kinh tế - xã hội
|
Lực lượng lao động
(1000 người)
|
Tỉ lệ (%)
|
Chung
|
Nam
|
Nữ
|
Cả nước
|
51.326
|
100,0
|
100,0
|
100,0
|
Trung du & miền núi phía Bắc
|
7.076
|
13,8
|
13,4
|
14,2
|
Đồng bằng sông Hồng
|
11.371
|
22,2
|
21,5
|
22,8
|
Trung Bộ
|
11.092
|
21,6
|
21,2
|
22,0
|
Tây Nguyên
|
3.068
|
6,0
|
6,0
|
6,0
|
Đông Nam Bộ
|
8.398
|
16,3
|
16,7
|
16,0
|
Đồng bằng sông Cửu Long
|
10.320
|
20,1
|
21,2
|
19,0
|
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo cáo Điều tra Lao động - Việc làm
6 tháng đầu năm 2011.
Tính đến ngày 01/7/2011, nguồn nhân lực vùng Trung Bộ tương đối dồi dào, có quy mô lớn, đứng thứ 2/6 vùng trong cả nước với 11.092.000 người, chiếm 21,6% tổng số lao động cả nước (chỉ sau vùng Đồng bằng sông Hồng (Xem bảng 1); và tỉ số lao động có việc làm từ 15 tuổi trở lên của vùng Trung Bộ cũng ở thời điểm này là 76% (Hình 1). Tuy nhiên, theo số liệu tổng hợp về Dân số và Lao động sơ bộ năm 2011 của Tổng cục Thống kê, lao động từ 15 tuổi trở lên qua đào tạo nghề của Trung Bộ chỉ chiếm 14,4% trong tổng số lao động có việc làm, thấp hơn mức bình quân 15,4% số lao động có việc làm của cả nước (thấp hơn nhiều so với 21,1% của Đồng bằng sông Hồng và 20,7% của Đông Nam Bộ), chỉ cao hơn Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Trung du & miền núi phía Bắc lần lượt là 8,6% - 10,8% - 13,6%. Trong đó, các địa phương đáng báo động của Trung Bộ do có tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề rất thấp là: Bình Thuận chỉ có 9,1%; Quảng Ngãi 9,7%; Phú Yên 11%; Bình Định 11,6%. Trong một thời gian khá dài, vùng Trung Bộ thiếu nguồn nhân lực đã qua đào tạo, cụ thể: năm 1999 có đến 92,6% lực lượng lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT); sau 10 năm, tuy có giảm nhưng không đáng kể vì vẫn còn đến 87,8% (cao hơn mức bình quân cả nước là 85,1%); đến năm 2011, lực lượng lao động không có trình độ CMKT của vùng vẫn còn chiếm rất cao (85,3%/tổng số lao động) (Xem bảng 2). Do vậy, vùng Trung Bộ đang phải đối mặt với áp lực và thách thức rất lớn về giải quyết lao động - việc làm do cơ cấu dân số của vùng năm 2011 bước vào giai đoạn cơ hội dân số vàng1 với 64,14% dân số trong độ tuổi lao động.
Hình 1: Tỉ số lao động có việc làm trên dân số từ 15 tuổi trở lên (%)
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo cáo Điều tra Lao động - Việc làm 6 tháng đầu năm 2011.
Bảng 2: Cơ cấu lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ chuyên môn của vùng Trung Bộ
ĐVT: %
Trình độ
|
Năm 1999
|
Năm 2009
|
Năm 2011
|
Cả nước
|
Trung bộ
|
Cả nước
|
Trung bộ
|
Cả nước
|
Trung bộ
|
Không có trình độ CMKT
|
92,1
|
92,6
|
85,1
|
87,8
|
84,4
|
85,3
|
Dạy nghề
|
2,3
|
2,1
|
3,0
|
2,1
|
4,0
|
3,2
|
Trung cấp chuyên nghiệp
|
2,8
|
3,0
|
5,1
|
4,8
|
3,7
|
4,3
|
Cao đẳng
|
2,6
|
2,2
|
1,8
|
1,7
|
1,8
|
1,9
|
Đại học trở lên
|
0,2
|
0,1
|
5,0
|
3,6
|
6,1
|
5,2
|
Tổng số
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
Nguồn: Tổng cục Thống kê, năm 1999, 2009 và 2011.
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động của vùng Trung Bộ tuy diễn ra theo hướng CNH, HĐH, song chuyển dịch còn chậm ở các ngành kinh tế và phân bố không đều giữa các địa phương, vẫn còn có sự chênh lệch lớn giữa đồng bằng duyên hải với miền núi, trung du trong nội vùng. Tỉ trọng lực lượng lao động cơ bản của vùng Trung Bộ đến nay vẫn tập trung chi phối ở ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Biểu hiện cụ thể: nếu như cơ cấu lao động nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng - dịch vụ năm 1999 tương ứng là 75% - 9% - 15%, thì sau 10 năm mới nhích dần 60,9% - 16,2% - 22,9% (2009) và đến năm 2011 có cơ cấu 56,2% - 17% - 26,8% (Xem bảng 3).
Bảng 3: Tỉ trọng lao động vùng Trung Bộ ở khu vực cư trú và ngành kinh tế
Năm
|
Tỉ lệ lao động trong các khu vực kinh tế
|
Tỉ lệ lao động thành thị và nông thôn
|
Nông nghiệp
|
Công nghiệp và xây dựng
|
Dịch vụ
|
Thành thị
|
Nông thôn
|
1999
|
75,0
|
9,0
|
15,0
|
19,0
|
81,0
|
2009
|
60,9
|
16,2
|
22,9
|
24,0
|
76,0
|
2011
|
56,2
|
17,0
|
26,8
|
25,3
|
74,7
|
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo cáo điều tra lao động và việc làm
các năm 1999, 2009, 2011.
Sự chậm trễ trong chuyển dịch cơ cấu lao động cũng cắt nghĩa nguồn nhân lực của vùng (xét cả về số lượng và chất lượng) là chưa thể đáp ứng nhu cầu phát triển sắp tới của các ngành kinh tế, đặc biệt ở khu vực công nghệ cao, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Nhóm lực lượng lao động không có trình độ CMKT tập trung đại bộ phận ở khu vực nông nghiệp và nông thôn, trong khi công việc sản xuất ở khu vực này vẫn còn mang tính chất thời vụ và tình cảnh nông nhàn luôn luôn diễn ra. Không chỉ có vậy, điều này còn gây áp lực trở lại đối với kinh tế - xã hội khu vực nông thôn khi phải chịu sức ép lớn về giải quyết việc làm và thu nhập cho lao động dôi dư (một bộ phận nông dân đáng kể không kịp và không đủ điều kiện chuyển đổi nghề nghiệp) trong điều kiện đất đai ở nông thôn đang ngày càng bị thu hẹp do sự gia tăng tốc độ đô thị hóa theo chiều rộng, sự gia tăng tốc độ công nghiệp hóa để phát triển các KCN, KKT,... Ngoài ra, tình trạng người lao động di cư từ vùng Trung Bộ đến các vùng kinh tế khác tìm kiếm việc làm vẫn đang diễn ra, nhất là di cư vào Đông Nam Bộ. Điều này vừa gây sức ép lớn về mức gia tăng dân số cơ học đối với các vùng nhập cư vào, đồng thời vừa dẫn đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng của Trung Bộ (suy giảm nguồn nhân lực tại chỗ) đang làm ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nội vùng.
Hiện trạng nêu trên phản ánh trình độ lao động vẫn còn thấp kém của vùng Trung Bộ và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Hai là, Cấu trúc nguồn nhân lực vùng Trung Bộ không cân đối và chưa thực sự hợp lý, chưa tương xứng với sự phát triển vùng. Nguồn nhân lực của vùng đang phải đối mặt với tình trạng thừa lao động giản đơn và không có trình độ CMKT, nhưng lại thiếu trầm trọng nguồn nhân lực có trình độ CMKT, dẫn đến việc vùng Trung Bộ đang phát triển mất cân đối và chưa thực sự bền vững.
Cấu trúc nguồn nhân lực đã qua đào tạo của vùng Trung Bộ năm 2009 là 0,5 - 0,7 - 9 (cứ ứng với 5 người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên thì có 7 người lao động có trình độ trung cấp, sơ cấp và 90 lao động không có trình độ CMKT); và có cải thiện chút ít vào năm 2011 là 0,7 - 0,7 - 8,5 (bảng 4) nhưng chưa đáng kể, về tổng thể là vẫn thiếu hợp lý2. Mặt bằng trình độ diễn ra không đều, địa phương có tỉ trọng lao động có CMKT cao vẫn rơi vào các tỉnh - thành phố vốn có lợi thế về cơ sở đào tạo trình độ cao như: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng. Còn các địa phương như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị thì tỉ lệ này lại thấp hơn so với bình quân chung của cả nước.
Bảng 4: Cấu trúc nguồn nhân lực đã qua đào tạo của vùng Trung Bộ
Năm
|
Tổng số LLLĐ
|
Tỉ lệ LĐ không có trình độ CMKT (%)
|
Tỉ lệ LĐ có chứng chỉ Trung cấp, sơ cấp, CN kĩ thuật (%)
|
Tỉ lệ LĐ có bằng CĐ, ĐH trở lên (%)
|
Cấu trúc
|
Toàn quốc
|
1999
|
42.791.190
|
91,0
|
6,0
|
3,0
|
0,3 - 0,6 – 9
|
2009
|
49.187.222
|
86,7
|
7,3
|
6,0
|
0,6 - 0,7 – 9
|
2011
|
|
84,4
|
7,7
|
7,9
|
0,4 – 0,7 – 8,4
|
Vùng Trung Bộ
|
1999
|
8.426.27
|
92,3
|
4,0
|
3,7
|
0,3 - 0,4 – 9
|
2009
|
10.548.048
|
87,8
|
6,9
|
5,3
|
0,5 - 0,7 – 9
|
2011
|
|
85,3
|
7,5
|
7,1
|
0,7 – 0,7 – 8,5
|
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Tổng hợp số liệu từ Tổng điều tra dân số và nhà ở
năm 1999 và 2009.
Trong quá trình CNH-HĐH, dưới tác động của nhiều chính sách và chương trình kinh tế - xã hội của Nhà nước, 10 KKT ven biển và 23 KCN đã được quy hoạch để phát triển vùng Trung Bộ. Tuy vậy, lao động đã qua đào tạo (từ sơ cấp, học nghề trở lên) năm 2011 chỉ chiếm 14,6% trong tổng số lao động của cả vùng. Tính đến năm 2010, vùng Trung bộ có tới 14 KKT và 64 khu chế xuất (KCX), khu và cụm công nghiệp. Vì vậy, nhu cầu lao động có trình độ CMKT tại các KKT, KCN, KCX, cụm công nghiệp của vùng đang là yêu cầu rất lớn và cấp bách. Năm 2010, tại Nghi Sơn (Thanh Hóa) cần 5.000 lao động, Vũng Áng (Hà Tĩnh) cần 35.000 lao động, Lăng Cô - Chân Mây (Thừa Thiên - Huế) cần 11.000 lao động, Chu Lai (Quảng Nam) cần 17.000 lao động, Dung Quất (Quảng Ngãi) cần 13.500 lao động, Đà Nẵng cần 43.310 lao động,...3. Ngay như Đà Nẵng, thành phố trực thuộc trung ương (địa phương phát triển nổi trội nhất của vùng), năm 2011 cũng gặp phải tình hình diễn ra khá căng thẳng do thiếu lao động khi nhu cầu tuyển dụng của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn gần như không được đáp ứng. Trong phiên giao dịch việc làm đầu năm tại thành phố có 14 doanh nghiệp tham gia với nhu cầu tuyển dụng là 387 lao động, nhưng chỉ có 100 lao động đến đăng ký tìm việc, và kết quả phỏng vấn chỉ có 17 lao động đạt yêu cầu.4
Vì thế, yêu cầu nhanh chóng phải chú trọng triển khai chiến lược phát triển nhân lực vùng để đào tạo, nâng cao trình độ của lực lượng lao động là cấp thiết. Cụ thể hơn, vùng Trung Bộ cần có những chính sách thích hợp về đào tạo nghề đối với nguồn nhân lực tại chỗ, vừa để đáp ứng nhu cầu là khu vực có dự án kinh tế - xã hội trọng điểm, vừa khuyến khích và tạo điều kiện để người lao động nông thôn có thể tận dụng hết khả năng của mình nhằm xây dựng và phát triển nông thôn mới.
Ba là, Hoạt động giáo dục đào tạo để phát triển nguồn nhân lực tuy được triển khai nhanh chóng nhưng thiên về chiều rộng là chủ yếu, chưa đầu tư đúng mức về chiều sâu, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực và việc quản lý giáo dục đào tạo chưa được đầu tư đúng mức khiến cho bằng cấp đào tạo của vùng Trung Bộ hiện vẫn chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận.
Bệnh thành tích vẫn phổ biến trong ngành giáo dục, hội chứng mở trường đại học ở các địa phương (hầu như địa phương nào cũng có) diễn ra một cách ồ ạt, và trào lưu nâng cấp từ trường cao đẳng lên đại học trong những năm qua rất sôi động đã làm tăng nhanh về số lượng trường đại học nhưng thiếu sự kiểm soát, kiểm định bởi thiếu sự đầu tư chiều sâu là tiêu chuẩn về chất lượng đào tạo (các hội chứng và trào lưu này cũng cho thấy, việc quản lý giáo dục đào tạo thiếu cơ sở dự báo tính cân đối từ nhu cầu nguồn nhân lực cho quá trình CNH - HĐH đất nước). Về mặt nội dung và chương trình đào tạo còn nặng lý thuyết và chậm đổi mới, xem nhẹ thực hành kỹ năng nghề - đây vốn là căn bệnh phổ biến xảy ra ở rất nhiều cơ sở đào tạo5,... Những hiện tượng vừa nêu là biểu hiện của sự tích tụ những yếu kém về chất lượng và hiệu quả cùng những tiêu cực trong quản lý và điều hành, đã khiến cho giáo dục - đào tạo trở nên tụt hậu trước những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Minh chứng từ đầu ra của hoạt động đào tạo thể hiện khá rõ qua việc một bộ phận không nhỏ lực lượng sinh viên/học sinh tốt nghiệp ra trường được doanh nghiệp tuyển dụng lao động, nhưng không thích ứng được ngay với môi trường làm việc (thậm chí rất nhiều trường hợp buộc doanh nghiệp phải đào tạo lại) trong khi các doanh nghiệp, các KCN lại thiếu trầm trọng lao động đã qua đào tạo theo đúng nhu cầu, dẫn đến nảy sinh một nghịch lý: các doanh nghiệp thiếu thị trường lao động kỹ thuật cao, còn người lao động lại thiếu việc làm. Kết luận số 51-KL/TW (Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khóa XI của Đảng Cộng sản Việt Nam) đã nhận định: “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo, giữa dạy chữ, dạy nghề và dạy người; nội dung giáo dục còn nặng về lý thuyết, có mặt xa rời thực tế, chạy theo thành tích, chưa chú trọng giáo dục đạo đức, ý thức và trách nhiệm công dân,…”
Các chỉ tiêu liên quan đến chất lượng giáo dục6 ở bảng 5 cho thấy phần nào bức tranh hiện trạng chất lượng giáo dục Việt Nam trong tương quan so sánh với một số nước trong khu vực.
Bảng 5: Các chỉ tiêu liên quan đến chất lượng giáo dục của Việt Nam
trong tương quan so sánh với một số nước trong khu vực
Các chỉ tiêu
|
Việt Nam
|
Singapo
|
Malayxia
|
Thái Lan
|
Inđônêxia
|
Philipin
|
Tiếp cận internet trong
trường học năm 2010
|
3,33
|
10,00
|
5,33
|
4,00
|
3,33
|
2,00
|
Chi tiêu công cho giáo dục tính theo% GDP năm 2009
|
8,57
|
4,29
|
7,86
|
7,86
|
4,29
|
4,29
|
Chất lượng dạy toán và
khoa học năm 2010
|
3,33
|
10,00
|
5,33
|
2,67
|
4,00
|
1,33
|
Chất lượng các trường quản lý năm 2010
|
2,00
|
10,00
|
6,67
|
5,33
|
5,33
|
4,00
|
Tỉ lệ dân cư trên 15 tuổi tốt
nghiệp trung học năm 2010
|
2,78
|
4,44
|
8,33
|
2,22
|
5,00
|
3,89
|
Tỉ lệ nữ trên 15 tuổi tốt nghiệp trung học năm 2010
|
3,33
|
4,44
|
7,78
|
2,22
|
1,67
|
5,00
|
Tỉ lệ dân cư trên 15 tuổi tốt nghiệp đại học năm 2010
|
2,22
|
6,67
|
2,78
|
7,22
|
1,11
|
8,89
|
Tỉ lệ nữ trên 15 tuổi tốt nghiệp đại học năm 2010
|
1,67
|
6,11
|
3,33
|
6,67
|
1,11
|
8,89
|
Chỉ tiêu bình quân
|
3,40
|
6,99
|
5,93
|
4,77
|
3,23
|
4,79
|
Nguồn: World Bank (2012), Interactive Knowledge Assessment Methodology.
Những tranh cãi lâu nay giữa hệ chính quy và không chính quy đều xoay quanh vấn đề chất lượng giáo dục là một minh chứng. Trong một thời gian dài, nước ta đã buông lỏng quản lý hệ đào tạo tại chức7, để các trường đại học tuyển sinh hệ tại chức tràn lan và không giới hạn, khiến cho chất lượng đào tạo hệ này ở vùng Trung Bộ cũng gặp không ít vấn đề8. Hơn nữa, quan hệ giữa trình độ bằng cấp được đào tạo so với năng lực thực tế không phải bao giờ cũng tương thích và đây cũng không phải là hiện tượng hiếm thấy ở nước ta nói chung và vùng Trung Bộ nói riêng. Kết luận số 51- KL/TW (Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khóa XI) về Đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế cũng xác định: “Những hiện tượng tiêu cực trong tuyển sinh, thi và cấp bằng, lạm thu, dạy thêm chậm được khắc phục, gây bức xúc xã hội”.
Bốn là, Yếu về khả năng phân luồng thu hút học sinh vào các trường trung cấp chuyên nghiệp. Mạng lưới các trường cao đẳng nghề và trung cấp nghề trong vùng chiếm tỉ lệ thấp và hiện chưa hình thành được các trường chất lượng cao, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới. Cơ cấu tuyển sinh đào tạo nghề ở trình độ trung cấp nghề và cao đẳng nghề đạt thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu quy hoạch. Giáo dục đại học vùng vẫn đang có sự cách biệt quá lớn giữa đào tạo và sử dụng, giữa cung và cầu về nhân lực. Nhìn chung, cơ cấu ngành nghề đào tạo của vùng chưa bám sát với nhu cầu thị trường lao động.
Khả năng phân luồng thu hút học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông vào học các trường trung cấp chuyên nghiệp gần như ít được quan tâm. Hoạt động quảng bá, tư vấn, hướng nghiệp học nghề, việc làm còn hạn chế; chưa gắn công tác tuyển sinh với tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Hệ thống đào tạo nghề của vùng Trung Bộ hiện có 272 cơ sở đào tạo nghề ở các cấp đào tạo (35 trường cao đẳng nghề, 52 trường trung cấp nghề và 185 trung tâm dạy nghề)9. Tuy nhiên, do mạng lưới các trung tâm dạy nghề ngắn hạn chiếm đa số (68%); các trường cao đẳng nghề và trung cấp nghề trong vùng thì ít ỏi (chỉ chiếm lần lượt hơn 12% và 19% trong tổng số các cơ sở đào tạo nghề), cũng như phân bố không đồng đều giữa các tỉnh/thành; đặc biệt là vùng hiện chưa có được các trường chất lượng cao, và đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới. Năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề của vùng còn nhỏ, trang thiết bị phục vụ đào tạo nghề vừa thiếu vừa lạc hậu do ít được nâng cấp. Một số nội dung, chương trình đào tạo nghề còn nặng về lý thuyết và chưa kịp đổi mới (các chương trình học đều thiên về phần hướng dẫn trên sách vở, ít các chương trình mang tính thực tế hoặc thiếu sự lồng ghép giữa lý thuyết với thực hành). Đội ngũ giáo viên trường nghề còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng, nhất là yếu về phương pháp giảng dạy và kỹ năng thực hành nghề, ngoại ngữ, tin học ứng dụng, số giáo viên, giảng viên dạy được cả lý thuyết và thực hành chiếm tỉ lệ thấp. Cơ cấu tuyển sinh đào tạo nghề ở trình độ cao đẳng và trung cấp nghề đạt thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu quy hoạch, nhất là trong bối cảnh Thông tư số 55/2012/TT-BGDĐT (ngày 25/12/2012) quy định về “Đào tạo liên thông trình độ cao đẳng, đại học” của Bộ Giáo dục và Đào tạo có hiệu lực.
Mạng lưới trường cao đẳng, đại học vùng Trung Bộ tương đối hoàn chỉnh, đào tạo đa ngành và đa lĩnh vực, có khả năng đào tạo không chỉ thỏa mãn nhu cầu nhân lực tại chỗ, mà còn cung ứng lực lượng lao động cho khu vực Tây Nguyên và các khu vực đang phát triển công nghiệp mạnh mẽ ở các tỉnh phía Nam… Tính đến hết năm 2010, có 81 trường đại học, cao đẳng, chiếm gần 20% của cả nước (toàn quốc có 414 trường), gồm: 33 trường đại học (9 trường ngoài công lập) và 48 trường cao đẳng (10 trường ngoài công lập). Tập trung nhiều nhất tại hai trung tâm đào tạo lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên - cấp đại học trọng điểm quốc gia là Đại học Huế và Đại học Đà Nẵng. Thứ đến là đại học cấp vùng như Đại học Vinh và Đại học Quy Nhơn. Ngoài ra, vùng Trung Bộ còn có các trường đại học địa phương: Đại học Hồng Đức, Đại học Hà Tĩnh, Đại học Phạm Văn Đồng, Đại học Phú Yên, Đại học Quảng Bình, Đại học Quảng Nam, Trường Đại học Văn hóa - Thể thao & Du lịch Thanh Hóa, Đại học Nha Trang; cùng với nhiều trường đại học của các bộ, ngành và trường đại học dân lập đóng trên địa bàn. Tuy nhiên, thực tại nền giáo dục đại học vùng vẫn đang có sự cách biệt quá lớn giữa đào tạo và sử dụng lao động, giữa cung và cầu về nhân lực (ngay cả cơ cấu phân bổ nhân lực theo ngành nghề cũng mất cân đối: các ngành kỹ thuật - công nghệ, nông, lâm, ngư nghiệp còn ít và chiếm tỉ lệ thấp, trong khi các ngành xã hội, luật, kinh tế, ngoại ngữ,... lại quá cao), thiếu sự liên kết giữa “nhà trường - sinh viên và doanh nghiệp”. Thực tế còn cho thấy một bộ phận không nhỏ sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm; ngay cả sinh viên tốt nghiệp ra trường được tuyển dụng lao động vẫn chưa thích ứng được ngay với môi trường làm việc của doanh nghiệp, nhiều sinh viên yếu về ngoại ngữ, tin học và kỹ năng “mềm” nên xin việc rất khó khăn. Sự kiện Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có khuyến cáo là một minh chứng: Từ năm 2013 sẽ tạm dừng mở các ngành đào tạo đang thừa “đầu ra” như tài chính ngân hàng, quản trị kinh doanh, kế toán, đồng thời kiến nghị Thủ tướng Chính phủ không cho phép mở các trường đại học đào tạo các ngành này.
2. Một số gợi ý về phát triển nguồn nhân lực vùng Trung Bộ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” là một trong ba khâu đột phá quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Định hướng chung đối với việc triển khai chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020. Để đáp ứng sự phát triển nhanh và bền vững vùng, việc phát triển nguồn nhân lực vùng Trung Bộ cần tập trung giải quyết:
Thứ nhất, Trong dài hạn, việc phát triển nguồn nhân lực vùng Trung Bộ phải dựa trên các chiến lược kinh tế - xã hội và tái cơ cấu nền kinh tế vùng, phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe10 người dân, chính sách lương và bảo đảm an sinh xã hội.
Trong đó, phải chú trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của vùng, quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo nghề và các công trình hạ tầng xã hội như trường học, cơ sở y tế, nhà ở,... Dựa vào nhu cầu nhân lực ở các địa phương và các ngành thuộc vùng (tính đến nhu cầu về nhân lực để triển khai chiến lược phát triển kinh tế vùng), sớm tiến hành rà soát lại để thu thập đầy đủ, lập cơ sở dữ liệu thông tin về nhu cầu nguồn nhân lực, tạo cơ sở khả thi cho quá trình lập quy hoạch phát triển nhân lực của từng địa phương và từng ngành của vùng Trung Bộ thời kỳ 2011 - 2020, để đảm bảo cân đối nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước và các địa phương (kể cả bảo đảm sự cân đối giữa lao động và các yếu tố sản xuất khác) nhằm đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vùng theo hướng CNH - HĐH, theo kịp trình độ khu vực và quốc tế. Nguồn nhân lực của Trung Bộ hiện còn khá lớn, trước mắt cần tiếp tục ưu tiên các chương trình khai thác nguồn lực lao động, đào tạo nghề và tạo việc làm.
Thứ hai, Cần đổi mới và tổ chức lại hệ thống giáo dục đào tạo theo hướng hiện đại và cạnh tranh quốc tế. Trong đó, lấy giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông là tiền đề và điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục dạy nghề, giáo dục đại học. Với giáo dục phổ thông, Nhà nước cần đầu tư tối đa để phổ cập với chất lượng tốt, tạo điều kiện để ai cũng có cơ hội được thụ hưởng nền giáo dục chất lượng cao. Hiện đại hóa nội dung và phương pháp dạy và học để thúc đẩy phát triển năng lực trí tuệ sáng tạo. Các trường phổ thông cần đổi mới theo hướng gắn nhiều hơn với giáo dục nghề. Coi trọng và tuyên truyền giáo dục dạy nghề11 và tăng cường công tác tư vấn hướng nghiệp để phân luồng học sinh theo yêu cầu mở rộng hệ thống trường nghề, đào tạo thợ lành nghề. Theo đó, Nhà nước cần quy định về tiêu chuẩn nghề ở từng loại thị trường, đặt quy chuẩn việc xây dựng khung hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo nghề để phù hợp xu thế hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu. Với giáo dục đào tạo sau phổ thông đòi hỏi phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đối với phát triển giáo dục đại học, ngân sách Nhà nước nên tập trung vào đào tạo nhân tài và nhân lực chất lượng cao; đào tạo các ngành thiết yếu.
Thứ ba, Đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nhân lực. Tiếp tục rà soát và hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý về giáo dục - đào tạo để phát triển nền giáo dục hiện đại và có tính mở theo hướng hội nhập. Hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực các cấp, ngành nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhân lực; tăng cường chú trọng công tác quy hoạch, xây dựng, bồi dưỡng, lựa chọn qua thi tuyển các chức danh (giám đốc/phó giám đốc sở, hiệu trưởng/phó hiệu trưởng,...) để tuyển dụng đội ngũ cán bộ quản lý không chỉ phải đạt về phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị tư tưởng vững vàng, mà đặc biệt còn yêu cầu phải đạt về tầm nhìn của tư duy, giỏi về năng lực tổ chức điều hành và phương pháp làm việc chuyên nghiệp. Chú trọng việc rà soát lại và chuẩn hóa đội ngũ giảng viên/giáo viên cả về trình độ và phương pháp giáo dục/giảng dạy.
Đã đến lúc phải chú ý xây dựng cơ chế quản lý và sử dụng để đội ngũ giảng viên/giáo viên có động lực yên tâm công tác. Cần xúc tiến việc hoàn thiện một số cơ chế, chính sách ưu đãi mang tính tổng hợp nhằm ưu tiên cho công tác đào tạo và thu hút nhân tài bằng chế độ lương bổng, nhà công vụ, điều kiện làm việc để tránh/giảm thiểu tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay. Điều này hàm ý chính sách nhân tài phải có tính cạnh tranh so với các quốc gia khác, các vùng khác trong cả nước về các mặt như đãi ngộ, điều kiện làm việc, giao các chức trách xứng với tài năng,…
Thứ tư, Phát triển nhân lực có chất lượng trên cơ sở xác định rõ mục tiêu và nhất quán phương châm thực hiện “học đi đôi với hành”, đầu tư hoàn thiện các điều kiện về cơ sở vật chất và hạ tầng, đổi mới việc thiết kế nội dung và chương trình đào tạo ngành nghề phải hiện đại, cập nhật và áp sát thực tiễn, đổi mới phương pháp dạy - học tích cực (phát huy trí sáng tạo tự chủ của học sinh nhằm thay cho cách học nhồi nhét tri thức); chú trọng đào tạo và cập nhật kỹ năng mềm (kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thực hành và kỹ năng làm việc theo nhóm), kỹ năng nghề, phương pháp làm việc và tác phong lao động để đáp ứng những gì mà xã hội cần và doanh nghiệp đặt hàng.
Thứ năm, Cùng với việc quản lý và thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực, Nhà nước và các cấp chính quyền cần có chính sách thích đáng về đầu tư, liên kết hợp tác và khuyến khích, sử dụng rộng rãi, hiệu quả các cơ chế và công cụ của kinh tế thị trường để mở rộng quy mô, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực và huy động các nguồn vốn cho đào tạo nhân lực. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển nguồn nhân lực.
Việc đầu tư cho giáo dục đào tạo cần phải đặt lại đúng nghĩa là quốc sách hàng đầu. Nâng suất đầu tư/sinh viên, học sinh cao hơn để đảm bảo chất lượng; hỗ trợ sinh viên, học sinh nghèo,... Điều đáng chú ý quan trọng của sự đầu tư giáo dục đào tạo, cũng như đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào tạo là phải gắn liền với chú trọng công tác “hậu kiểm”: đẩy mạnh việc kiểm soát, kiểm định chất lượng giáo dục đào tạo của vùng theo phương châm “quý hồ tinh, bất quý hồ đa” và thực hiện công bằng trong giáo dục để đảm bảo đặt chất lượng nguồn nhân lực. Đẩy mạnh phân cấp, thực hiện quyền tự chủ, nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo nhân lực dưới sự quản lý của nhà nước và giám sát của xã hội.
Việc đào tạo theo nhu cầu xã hội là xu hướng đương đại và đòi hỏi sự tương tác, hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường trong công tác đào tạo nhân lực là tất yếu diễn ra. Do vậy, phải thiết lập và hoàn thiện về cơ chế cạnh tranh hợp pháp để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh nhằm chuyển mạnh hệ thống đào tạo nhân lực sang hoạt động theo cơ chế đào tạo theo nhu cầu của xã hội và thị trường lao động, nhất là các ngành trọng điểm.
Thứ sáu, Trong quá trình đào tạo, để có một cơ cấu cân đối và hài hòa theo ngành nghề cho đội ngũ nhân lực có chất lượng, bản thân một trường đại học/một địa phương thì chưa đủ khả năng thực hiện tốt, mà cần đề cao sự liên kết, phối hợp và phân công nhiệm vụ đào tạo rõ ràng là mấu chốt để tập trung đầu tư đối với các trường cao đẳng, đại học trong toàn hệ thống đào tạo của vùng. Nếu không có sự phối hợp này, sự chồng chéo trong ngành nghề đào tạo ở các trường sẽ diễn ra, hệ quả là số lượng đào tạo lớn nhưng chất lượng không cao như mong đợi. Cần chú trọng tạo lập cơ chế liên kết phát triển nguồn nhân lực giữa các địa phương trong nội vùng và ngoại vùng, trước hết là thiết lập cơ chế liên kết giữa hệ thống Đại học Huế với Đại học Đà Nẵng để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng kinh tế trọng điểm miền Trung nói riêng và cả Trung Bộ, Tây Nguyên nói chung. Khai thác tối đa các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng hiện có dựa vào phân vai thế mạnh đào tạo của từng trường, giảm thiểu nguy cơ cạnh tranh trực diện. Cần điều chỉnh việc xây dựng các trung tâm đại học ở các vùng dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo thay vì phân tán ở các địa phương.
Chú ý tận dụng lợi thế của các tỉnh trong vùng để liên kết với các tỉnh của Campuchia và Lào nhằm phát triển nhân lực, tập trung ưu tiên xây dựng các cơ sở đào tạo đạt trình độ quốc tế và đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhóm nhân lực trình độ cao trong các ngành trọng điểm đạt trình độ của các nước tiên tiến...
Tài liệu tham khảo
-
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (7/2011), “Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020”, Hà Nội.
-
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ đến năm 2020.