XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM: TỪ QUAN ĐIỂM ĐẾN THỰC TIỄN [1]
LƯƠNG ĐÌNH HẢI *
Những tư tưởng tiến bộ về con người, giải phóng con người luôn được quán triệt trong suốt sự nghiệp hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Người luôn xem con người là vốn qúy nhất. Vì vậy, theo Người, cần phải biết qúy trọng và bảo vệ con người. Tư tưởng đó cũng được thể hiện bằng quan điểm xem con người là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Con người cũng là nhân dân trong điều kiện cụ thể, giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng xã hội mới. “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[2].
Tư tưởng xem con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng, của sự phát triển xã hội là tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Theo Người, xây dựng con người là phải chú ý đến tất cả các mặt trong đời sống của con người, từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần. Người dân phải được ăn no, mặc ấm, được học hành và được hưởng quyền tự do, hạnh phúc. Con người được phát triển toàn diện, có lý tưởng yêu nước, có ý thức và tinh thần làm chủ; là con người có phẩm chất và đạo đức, một lòng một dạ phục vụ nhân nhân và cách mạng; là con người ham học hỏi, có kiến thức văn hóa; có lối sống giản dị, lành mạnh,...
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh đã bao hàm những nội dung trong quan điểm phát triển con người của Tổ chức phát triển Liên hợp quốc (UNDP) ngày nay. Ba lĩnh vực chính được UNDP cho là quan trọng đối với phát triển con người đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong suốt sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đó là, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc cho con người về mọi mặt như: ăn, mặc, ở, học tập, làm việc, diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm,... Di chúc của Người trước lúc đi xa đã nêu: đầu tiên là công việc về con người. Tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn hướng đến mục tiêu vì con người, cho con người và đặt con người lên trên hết. Những tư tưởng về con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại là tài sản vô giá trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Đặt con người ở trung tâm của quá trình phát triển là tư tưởng đã có trong truyền thống của Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng là tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, tư tưởng vì con người được thể hiện một cách khác nhau. Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ III (1960), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định con người là vốn qúy nhất. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) thực sự tạo ra bước ngoặt trong nhận thức về con người ở nước ta. Con người và phát triển con người toàn diện là mục tiêu hàng đầu. Tại Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), vai trò của con người trong phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục được khẳng định: “Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm”[3]. "Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách xã hội - tất cả vì con người”[4]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1991) đặt vấn đề coi trọng giáo dục để xây dựng nền văn hóa mới và con người mới. Đại hội VIII (1996) xác định: Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. "Phát huy người tốt, việc tốt. Hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”[5]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã nêu rõ nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới với 5 đức tính cụ thể.
Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) nhấn mạnh: "Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[6]. “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”[7]. Đại hội Đảng lần thứ IX đã đưa chỉ số HDI vào văn kiện khi yêu cầu: cần phải có biện pháp để nâng lên đáng kể chỉ số HDI[8].
Con người là vốn qúy nhất, với tư cách vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước; nhân tố con người với tinh thần nhân văn tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, sống trong một xã hội công bằng và nhân ái, với những quan hệ xã hội lành mạnh. Con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, tạo dựng điều kiện cho con người phát triển. Đó là quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đã được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn sau 20 năm đổi mới đất nước[9].
Đại hội Đảng lần thứ X (2006) tiếp tục phát triển tư tưởng xem con người ở vị trí trung tâm của quá trình phát triển khi khẳng định mục tiêu phấn đấu là xây dựng "xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”[10]. Các nhân tố tác động đến sự phát triển con người như kinh tế, giáo dục, chăm sóc sức khỏe,… được nêu cụ thể và nhấn mạnh hơn trước. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ thực hiện chiến lược quốc gia nâng cao tầm vóc, sức khỏe, tăng tuổi thọ và cải thiện giống nòi của người Việt Nam.
Điểm qua các kỳ Đại hội có thể thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về con người và vị trí của con người trong quá trình phát triển đất nước. Đảng ta đặt con người ở vị trí trung tâm và coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình phát triển. Những quan điểm này tiếp tục được Đảng khẳng định trong Đại hội Đảng lần thứ XI (2011). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 2011 đã nêu: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hóa Việt Nam”[11].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI nhấn mạnh mục tiêu và nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.
Qua các văn kiện, các chiến lược, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước từ năm 1986 đến nay có thể thấy tư tưởng về phát xây dựng con người Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện ở một số điểm chính sau:
-
Con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội luôn là vì con người; Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình phát triển và cũng là chủ thể của quá trình phát triển;
-
Đảm bảo quyền con người, mọi người đều có quyền bình đẳng như nhau trong quá trình phát triển, không có bất kỳ sự kỳ thị, phân biệt nào về dân tộc, tôn giáo, văn hóa, nơi sống, trình độ, giới tính,…
-
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện với những đức tính cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước và gắn liền với nâng cao điều kiện sống cho con người, vì vậy, các vấn đề về phát triển kinh tế, giáo dục - đào tạo, đời sống văn hóa, chăm sóc sức khỏe và bảo vệ môi trường đều được chú trọng...
Thực tiễn 30 năm qua cho thấy những tư tưởng đó đã đươc triển khai tích cực, quyết liệt, với ý thức và quyết tâm chính trị cao. Ba mươi năm đổi mới là quá trình xây dựng và không ngừng hoàn thiện thể chế dân chủ nhằm đảm bảo các quyền cơ bản và sự phát triển toàn diện của người dân với nhiều bài học kinh nghiệm qúy báu. Luôn tôn trọng và bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ và mục tiêu của mọi chính sách, giải pháp, mọi đạo luật của nước ta. Trong thực tiễn, việc gắn quyền con người với lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, bảo vệ mọi quyền và lợi ích của người dân vì sự phát triển của chính người dân là mục tiêu cao cả của Đảng và Nhà nước.
Thưc tiễn lịch sử xã hội cho thấy, trong mọi thời đại và mọi hoàn cảnh, dù có thể được nhận thức đầy đủ hoặc không, thì con người vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản, hàng đầu, giữ vị trí trung tâm trong quá trình phát triển. Một chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chỉ thành công khi đặt trọng tâm cao nhất là sự phát triển thực sự của chính con người, giải phóng năng lực con người khỏi mọi sự ràng buộc, kìm hãm phát triển. Chỉ có thể chế dân chủ mới thực sự giải phóng được những năng lực của con người và cộng đồng. Chất lượng của thể chế không chỉ tác động như một yếu tố tự thân mà còn ảnh hưởng có tính quyết định đến môi trường phát triển, chất lượng phát triển và năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế. Thể chế cũng chính là điều kiện tiên quyết để phát huy có hiệu quả những lợi thế quốc gia, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng và khả năng của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng và cả quốc gia. Không thể có được chất lượng phát triển tốt nếu không có một thể chế (không chỉ riêng thể chế kinh tế) chất lượng cao để tạo ra nền quản trị quốc gia hiện đại và hiệu quả. Cũng không thể có một sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc khi không có một thể chế dân chủ thực sự phù hợp với điều kiện quốc gia, dân tộc ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Trong 30 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo các quyền cơ bản của người dân. Đảng ta đã xây dựng và không ngừng hoàn thiện các chương trình, chính sách xã hội, phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, phục vụ mục tiêu phát triển con người trong thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vẫn còn một số tồn tại trong xây dựng thể chế và các chính sách xã hội, cần được tiếp tục củng cố, hoàn thiện nhằm thực hiện đầy đủ hơn các quyền con người và phục vụ tốt hơn cho mục tiêu phát triển con người. Hệ thống pháp luật chưa được xây dựng một cách đồng bộ, có tầm nhìn xa, nhiều nội dung còn bị chồng chéo giữa các văn bản luật, có những điều luật, bộ luật mới chỉ dừng lại ở khung pháp lý, thiếu điều kiện cần thiết để có thể áp dụng trong thực tiễn. Không ít người chưa thấy được các quyền của mình, mặt khác, lại cũng chưa hiểu được rằng quyền luôn gắn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân. Tình trạng quan liêu, tham nhũng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, dẫn đến có lúc, có nơi còn vi phạm các quyền công dân, quyền con người.
Trong gần 30 năm qua, các thành tựu xây dựng con người của nước ta còn được thể hiện qua chỉ số HDI có xu hướng tăng đều và khá ổn định, cả về giá trị tuyệt đối cũng như thứ hạng. Với những thành quả đạt được về phát triển con người, trong Báo cáo phát triển con người năm 2013 của UNDP, Việt Nam đã được xếp vào danh sách hơn 40 quốc gia đang phát triển đạt được những tiến bộ hơn cả mong đợi về phát triển con người trong những thập kỷ gần đây[12]. Năm 2010, Việt Nam đứng thứ 129/187; năm 2011, Việt Nam đứng thứ 128/187; đến năm 2012, Việt Nam ở vị trí 127/186 quốc gia công bố HDI và nằm trong nhóm xếp loại trung bình[13]. “Việt Nam là một trong những nước rất năng động và đạt được tiến bộ phát triển con người rất nhanh”[14]. Năm 2013, Việt Nam được xếp thứ 121/187 quốc gia. Tuy nhiên, khi so sánh với các quốc gia trong khu vực, và so với yêu cầu, mục tiêu đã đặt ra thì HDI của Việt Nam hiện chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và sự mong đợi của nhân dân.
Các thành tựu đạt được trong lĩnh vực chính trị, xã hội, thực thi dân chủ, đảm bảo các quyền con người cũng là một khía cạnh khác của chỉ báo phát triển con người. Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của người dân là điều kiện cơ bản để đảm bảo thực thi quyền con người và nâng cao sự hưởng thụ về quyền con người của người dân. Tất cả các quyền đều được tăng cường thực thi, được đảm bảo tốt hơn với mọi tầng lớp, cộng đồng, các nhóm xã hội và các thành viên. Xã hội ổn định và phát triển thì con người mới có cơ hội và điều kiện để phát triển. Không ai có thể phủ nhận thành tựu này trong 30 năm qua.
Kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội cũng là một thành tựu trong xây dựng và phát triển con người ở nước ta. Bình đẳng về cơ hội và công bằng trong phân phối đã trở thành một định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn 30 năm đổi mới nhằm mục tiêu phát triển con người và luôn được quán triệt trong mỗi chính sách và bước phát triển.
Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển tiếp theo, còn nhiều thách thức, khó khăn đang đặt ra cho việc thực hiện mục tiêu xây dựng và phát triển con người. Nước ta đang bước vào thời kỳ dân số vàng, được xem là giai đoạn từ năm 2010 đến khoảng năm 2045. Dân số đã và đang có nhiều biến đổi với một số đặc điểm đáng chú ý. Cơ cấu độ tuổi của dân số biến đổi mạnh theo hướng tỉ lệ trẻ em dưới 14 tuổi bắt đầu giảm, tương ứng dân số trong độ tuổi từ 15 đến 64 tuổi bắt đầu tăng lên và dân số cao tuổi, từ 65 tuổi trở lên cũng sẽ tăng dần. Hiện nay, nước ta đã phần nào hiện thực hóa lợi thế của biến đổi cơ cấu dân số theo độ tuổi, phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu so sánh đóng góp của biến đổi cơ cấu dân số theo độ tuổi vào tăng trưởng kinh tế với các nước trong khu vực (khoảng 30%) thì tỉ lệ của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn.
Trong khi đó chất lượng tăng trưởng của nước ta còn thấp, chưa bền vững. Dù rằng trong 30 năm qua nước ta đã có mức tăng trưởng cao, liên tục, là điều kiện để gia tăng đầu tư vào vốn con người, nhưng đầu tư chưa hiệu quả như mong muốn và khả năng, vẫn chủ yếu là tập trung đầu tư vốn chứ chưa phải là đầu tư và tăng trưởng từ vốn con người. Tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng còn thấp thể hiện qua năng suất lao động thấp[15]. Thu nhập tăng và mức sống chung của người dân trong những năm qua đã được nâng lên nhưng còn thấp; bất bình đẳng về thu nhập đang gia tăng; Nền kinh tế tăng trưởng cao và liên tục trong suốt 30 năm nhưng chưa thực sự khuyến khích các cơ hội việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Thu nhập gia tăng nhưng cuộc sống của người dân vẫn thiếu sự đảm bảo an toàn và bền vững về sinh kế, đặc biệt ở một số vùng, ngành, nghề và một bộ phận không nhỏ người lao động. Thêm nữa, phát triển con người, cả từ phương diện lý luận lẫn thực tiễn, khó có thể đảm bảo bền vững khi năng lực và khả năng tích lũy vốn con người của nền kinh tế chưa cao. Dù có những thành tựu to lớn trong xóa đói giảm nghèo trong thời gian qua, nhưng khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền, trong một bộ phận dân cư, dân tộc chưa được giảm nhiều, thậm chí đang có xu hướng gia tăng.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã cố gắng tăng chi tiêu cho giáo dục và những cố gắng lớn của Chính phủ, của nhân dân đã làm cho giáo dục có những bước tiến lớn. Tuy vậy, giáo dục với tính cách là một trong các yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển con người lại đang có nhiều vấn đề. Sản phẩm của giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển con người và đang gây bức xúc và lo lắng cho xã hội. Thiếu hụt kỹ năng và yếu về tay nghề trong một số ngành, lĩnh vực, nhưng lại thừa lao động phổ thông và cả lao động được đào tạo ở bậc cử nhân và sau đại học đang là đặc thù của lực lượng lao động Việt Nam hiện nay. Phải chăng đó là kết quả của việc đào tạo chất lượng thấp, chưa gắn với nhu cầu xã hội. Đây thực sự là một trở ngại lớn cho tương lai phát triển con người nói riêng và phát triển xã hội của nước ta nói chung.
Tình trạng bất bình đẳng trong cơ hội tiếp cận giáo dục cũng như bất bình đẳng về cơ hội phát triển con người ở Việt Nam vẫn tiếp diễn cho dù chúng ta đã có nhiều cố gắng khắc phục tình trạng này trong nhiều năm qua[16]. Bất bình đẳng về giáo dục ở nước ta hiện nay có liên quan trực tiếp đến thu nhập. Thu nhập của các hộ có học vấn cao nhất đã tăng nhanh hơn ở các hộ có trình độ học vấn thấp hơn cả ở khu vực thành thị và nông thôn, và tăng nhiều hơn đối với lao động ở thành thị, làm gia tăng khoảng cách về thu nhập giữa các cá nhân có trình độ học vấn thấp và cao. Nếu chúng ta không kịp thời có những giải pháp tích cực để khắc phục trong thực tế khía cạnh bất bình đẳng phi lý, phi pháp về giáo dục thì trong tương lai, chênh lệch giàu nghèo giữa các thế hệ tiếp theo cũng như sự bất bình đẳng về cơ hội, về giáo dục sẽ ngày càng lớn.
Lực lượng lao động ở Việt Nam có tay nghề thấp dẫn đến năng suất lao động thấp và thu nhập thấp chưa thể khắc phục ngay trong một vài năm tới. Chất lượng nguồn nhân lực đang là một trong những điểm nghẽn không chỉ đối với sự phát triển kinh tế mà còn đối với sự phát triển đất nước nói chung. Việc làm không ổn định, thiếu bền vững và thay đổi cơ cấu việc làm không theo kịp thay đổi cơ cấu kinh tế, gây ảnh hưởng lớn đến sinh kế và đời sống của người lao động.
Ở góc độ y tế thì chỉ số y tế của Việt Nam tốt hơn nhiều nước có cùng trình độ phát triển HDI do chi tiêu công cho y tế đã tăng liên tục, đặc biệt là tỉ trọng của bảo hiểm y tế trong chi tiêu công cho y tế trong thập kỷ qua tăng khá nhanh và liên tục. Bảo hiểm y tế đang đóng vai trò tích cực giúp tăng khả năng tiếp cận của người dân với các dịch vụ y tế và giảm chi trực tiếp từ thu nhập của người dân. Nhưng, mặc dù có tiến bộ trong việc giảm bớt khoảng cách về tiếp cận y tế giữa các vùng, miền, nhóm xã hội, giữa các dân tộc, bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế vẫn tiếp tục và cũng chưa thể khắc phục ngay nên vẫn tiếp tục dẫn đến bất bình đẳng về sử dụng dịch vụ y tế trong nhiều năm tới.
Từ góc độ an sinh xã hội và an ninh con người, hiện còn nhiều vấn đề bức thiết ở nước ta: Hệ thống bảo hiểm xã hội đang đối mặt với nhiều thách thức phát sinh từ việc thiết kế và vận hành hệ thống. Những chuyển đổi về xã hội và nhân khẩu đã và đang tiếp tục làm thay đổi cơ cấu bệnh tật, nguyên nhân gây bệnh và gây tử vong. Bạo lực gia đình, lao động trẻ em, tội phạm trẻ em, tội phạm có học vấn, tội phạm xuyên quốc gia, mất cân bằng giới tính khi sinh, nguy cơ mất an ninh truyền thống và phi truyền thống,... là những vấn đề xã hội cấp bách và ảnh hưởng trực tiếp đến xây dựng và phát triển con người.
Ba thập kỷ xây dựng và phát triển con người vừa qua đã có nhiều thành tựu quan trọng không thể phủ nhận và có ý nghĩa to lớn đối với giai đoạn tiếp theo. Nhưng nó cũng đã tích tụ những vấn đề chưa được giải quyết, và trong bối cảnh mới (hội nhập, tái cơ cấu nền kinh tế, cải cách giáo dục,…), đang xuất hiện nhiều vấn đề bức thiết khác, đồng thời làm tăng độ bức thiết của những vấn đề cũ, đe dọa ở những mức độ khác nhau đối với sự phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn tới.
Từ góc độ các đặc tính, hay còn có thể gọi là các tiêu chí định tính về con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cho thấy chúng ta đã đi đúng hướng. Các tiêu chí xây dựng con người Việt Nam dù không mang tính chất định lượng, nhưng rõ ràng là mang tính bao quát, đầy đủ về các phương diện, vừa có tính định hướng, chỉ đạo trực tiếp, vừa mang tính chiến lược lâu dài.
Các quan điểm về xây dựng con người trong các nghị quyết cuat Trung ương Đảng là rất đầy đủ, toàn diện, bao quát, khoa học và phù hợp với điều kiện Việt Nam; các đặc tính, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam như đã được nêu trong các Nghị quyết là những đặc tính chung, bao quát cho cả thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài và cũng không thể phủ nhận tính đúng đắn, khoa học và thực tiễn của chúng. Các tư tưởng, quan điểm về xây dựng con người đó vẫn cần được kế thừa và tiếp tục là những nội dung, định hướng xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
Sau 15 năm thực hiện xây dựng con người theo các đặc tính trong Nghị quyết TW 5 khóa VIII, chúng ta đã thu được các thành tựu to lớn trên nhiều phương diện. Tinh thần yêu nước của con người Việt Nam không hề suy giảm mà trái lại rất mãnh liệt, được thể hiện dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, theo từng lứa tuổi, nghề nghiệp, công việc, địa bàn, vị trí khác nhau. Những thành quả phát triển đất nước hiện nay không thể tách khỏi tinh thần lao động yêu nước, ý thức phấn đấu rút ngắn khoảng cách tụt hậu của đất nước và của sự phát triển con người Việt Nam. Ý thức tập thể trong lao động, ý thức cộng đồng được nâng cao; tinh thần đoàn kết, vì lợi ích chung được củng cố và phát huy trong quảng đại quần chúng nhân dân. Điều này thể hiện rất rõ trong đời sống xã hội, đặc biệt trong những tình huống có vấn đề như bão lũ, hỏa hoạn, đói nghèo, bệnh tật, hoàn cảnh khó khăn,…
Con người Việt Nam ngày nay, đặc biệt là trong thanh niên, học sinh, ý thức bảo vệ môi trường tốt hơn. Nhận thức về mọi mặt cuộc sống nhiều chiều được nâng cao hơn. Họ ít ảo tưởng, thực tế, thực dụng (không phải là chủ nghĩa thực dụng), mức độ giao lưu, sự nhanh nhậy, tự chủ và tự lập tốt hơn các thế hệ trước đây. Năng lực hội nhập của các thế hệ hiện tại rõ ràng là hơn hẳn các thế hệ trước, không chỉ do các điều kiện thuận lợi hơn mà chủ yếu là do họ có nền tảng mọi mặt tốt hơn. Con người Việt Nam hiện nay có lối sống lành mạnh, nếp sống vǎn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng. Những phẩm chất này đang tồn tại thực, đang được phát huy có hiệu quả và tạo nên sự ổn định, phát triển của xã hội Việt Nam trong thời gian qua.
Con người Việt Nam thể hiện tinh thần lao động chǎm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, nǎng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Trình độ kỹ thuật, năng suất lao động và tính sáng tạo của các thế hệ người Việt Nam hiện nay hơn hẳn trước đây. Họ làm việc không chỉ để xóa đói, giảm nghèo mà là để trở thành giàu có. Khả năng nắm bắt và làm chủ các công nghệ mới, hiện đại của thế giới ở các thế hệ hiện nay vừa nhanh vừa tốt hơn nhiều.
Thể lực của người Việt Nam trong khoảng 30 năm qua cũng liên tục được cải thiện. Tốc độ tăng chiều cao trung bình qua từng 10 năm được đảm bảo, các thế hệ hiện nay cao hơn cha anh trước đây, mặc dù vẫn còn thấp, bé, nhẹ cân hơn thanh niên các nước khác vì chúng ta xuất phát điểm kém hơn họ[17]. Người Việt Nam hiện nay có ý thức, và thực tế là thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn và các mặt khác. Có thể thấy rằng, người Việt Nam hiện nay, cả từ phía Nhà nước lẫn nhân dân, đều bỏ tiền bạc, thời gian, sức khỏe hơn xưa để đầu tư cho việc học hành.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển đất nước, so với đòi hỏi hội nhập và đặc biệt là tình trạng tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới, thì việc xây dựng con người như trong thời gian qua là chưa đáp ứng được. Nếu không có nguồn lực con người đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới thì nước ta sẽ ngày càng tụt hậu. Đây là một thách đố rất lớn đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong những thập kỷ tới. Nguồn lực con người Việt Nam đang bộc lộ nhiều bất cập. Nếu không nhanh chóng khắc phục được những bất cập này, đất nước sẽ rơi vào khủng hoảng về phát triển con người và nguồn nhân lực. Xét từ góc độ tiêu chí và giá trị con người Việt Nam hiện nay, có thể nêu một số vấn đề nổi cộm như sau:
Thứ nhất, tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức suy thoái đang gây mất lòng tin nghiêm trọng vào chế độ, nhưng chậm được khắc phục.
Thứ hai, hàng loạt quy hoạch, kế hoạch, dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội trong các lĩnh vực khác nhau hoặc chất lượng thấp, hoặc chậm tiến độ, hoặc chất lượng không đảm bảo, xét kỹ đều có nguyên nhân do nguồn lực con người.
Thứ ba, trong xây dựng con người và nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, hạn chế và tiêu cực chậm được giải quyết, đã tích tụ, bắt đầu cộng hưởng tác hại, có thể gây nên những chấn động, đẩy một số lĩnh vực như giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và cả văn hóa rơi vào khủng hoảng trong giai đoạn tới. Thực trạng hiện nay có thể nói văn hóa đang bên bờ vực khủng hoảng, hệ giá trị xã hội đang rối loạn ở mức độ đáng báo động.
Thứ tư, dù đạt được nhiều thành tựu, nhưng giáo dục đào tạo đang là lĩnh vực có nhiều bất cập, đào tạo nhiều nhưng chất lượng đang xuống dần, đào tạo nhiều, nhưng dùng được ít. Xu thế thương mại hóa giáo dục, đào tạo và bằng cấp đang tiếp tục làm suy giảm chất lượng.
Thứ năm, tình trạng tội phạm gia tăng và có những diễn biến phức tạp thể hiện sự rối loạn của thang giá trị.
Thứ sáu, trong khoảng 15 năm gần đây không có được những hình mẫu con người cụ thể, sát thực cho các tầng lớp xã hội có thể học tập và noi theo.
Thứ bảy, con người Việt Nam hiện nay, mặc dù có những đặc tính và ưu điểm như trên, nhưng đồng thời cũng đang bộc lộ rất nhiều những hạn chế: Tâm lý ghen ăn tức ở[18], kéo lùi người hơn mình; Tư duy hạn hẹp; Thích phô trương thành tích, hình thức, học đòi, giả dối, tự ti, sĩ diện hão; Ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức pháp luật kém, tùy tiện, tự do vô chính phủ; Thiếu tính chuyên nghiệp trong lao động sản xuất và hoạt động; Ý thức trách nhiệm xã hội chưa cao và chưa đồng đều,...
Điều đáng lo ngại hơn là thể chế của chúng ta chậm được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu về việc xây dựng con người Việt Nam thích hợp với giai đoạn phát triển hiện nay. Thể chế nói chung (bao gồm cả chính sách, tổ chức thực hiện và chế tài) trong chừng mực nhất định không những không hạn chế, khắc phục hay xóa bỏ được những mặt hạn chế của người Việt Nam, sự rối loạn của hệ giá trị, mà thậm chí, có lúc, có nơi còn làm trầm trọng thêm tình hình.
Để có thể nhanh chóng khắc phục tình hình đó, theo chúng tôi, cần phải sử dụng rộng rãi quan điểm “xây dựng và phát triển con người Việt Nam” trong lý luận và trong thể chế phát triển, chứ không chỉ là quan điểm xây dựng. Đồng thời cần bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chí và giá trị con người Việt Nam; cần cụ thể hóa các tiêu chí và giá trị chung đó thành những tiêu chí giá trị cho các tầng lớp xã hội khác nhau.
Mặt khác, cần xây dựng thể chế phát triển con người và thể chế văn hóa - xã hội với tính cách là một bộ phận, một phương diện biểu hiện mức độ phát triển con người và thể hiện sự phù hợp của các quan hệ văn hóa - xã hội với trình độ phát triển con người.
Trong giai đoạn trước mắt cần tập trung ưu tiên xây dựng và phát triển con người trong bộ máy công quyền, hướng vào việc nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ, trách nhiệm xã hội, phẩm chất, bản lĩnh, ý thức dân tộc và tính chuyên nghiệp trong công vụ. Nên tập trung nhiều hơn, ưu tiên hơn cho khâu thực hiện, chế tài và giám sát trong việc xây dựng và phát triển con người ở các tầng lớp xã hội khác nhau, mà như đã nói ở trên, trước hết là tầng lớp công chức, quản lý gia, sau đó và song hành là tầng lớp trí thức và doanh nhân.
*PGS.TSKH.; Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
1 Bài viết có sử dụng tư liệu trong một số chuyên đề Tổng kết 30 năm đổi mới do Viện Nghiên cứu Con người thực hiện đầu năm 2014.
2 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Tr.698, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, T. 51, Tr.26.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, T. 51, Tr.56.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.113.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.659.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.676.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX , Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.160.
[9] Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb. Chính trị Quốc gia (2006), Hà Nội, Tr.79.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.17-18.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.76-77.
[12] Tăng 41% trong hai thập kỷ qua.
[13] Theo UNDP, Báo cáo phát triển con người năm 2013, “Sự trỗi dậy của các quốc gia nam bán cầu”.
[14] “Việt Nam đạt được tiến bộ về phát triển con người rất nhanh”, Công bố Báo cáo phát triển con người năm 2013, Ngày 03/7/2013.
[15] “Năng suất lao động của người Việt Nam bình quân chỉ bằng 1/15 của người Singgapo”, Xem http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/mot-nguoi-singapore-lam-bang-15-nguoi-viet-2989707.html.
[16] Chẳng hạn: tăng chi ngân sách cho giáo dục tiểu học, miễn giảm học phí cho nhiều đối tượng trong đó có các hộ nghèo, các chính sách ưu tiên vùng, miền,...
[17]Xem:http://www.doisong.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/nguoi-viet-thap-hon-5-6-cm-so-voi-nhieu-nuoc-2887052.html.
[18] Thời gian gần đây trên các trang mạng và trong giới trẻ gọi tâm lý này là GATO. Giàu thì bị ghét, nghèo thì bị khinh, thông minh thì bị o bế.