Trong khuôn khổ nghiên cứu “Tiếp cận dịch vụ xã hội của phụ nữ dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa” do Chương trình phát triển nguồn nhân lực của Đại sứ quán Úc tài trợ, Hội thảo chia sẻ kết quả nghiên cứu đã được tổ chức tại huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 22/10/2019. Tham dự hội thảo có đại diện của Lãnh đạo Ủy Ban Nhân Dân huyện Mường Lát, cùng với lãnh đạo của các phòng ban của huyện, các tổ chức đoàn thể như Phòng Lao động- Thương binh- Xã hội, Hội Phụ nữ huyện cùng với đại diện của Trường Phổ thông Dân tộc nội trú huyện Mường Lát. Ngoài ra Hội thảo còn có đại diện lãnh đạo xã, đại diện Hội phụ nữ, cán bộ lao động- thương binh- xã hội, cán bộ văn hóa của 9 xã, thị trấn trên toàn huyện Mường Lát.
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo, Phó Chủ tịch huyện Mường Lát nhấn mạnh tiếp cận dịch vụ xã hội của phụ nữ dân tộc thiểu số có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đạt được mục tiêu phát triển bền vững “không ai bị bỏ lại phía sau”. Ngoài ra, nó còn giúp trao quyền và thúc đẩy bình đẳng giới cho phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS), nhóm người dễ bị tổn thương nhất trong những người bị tổn thương. Do vậy nghiên cứu này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp huyện Mường Lát xác định được những vấn đề còn tồn tại trong việc tiếp cận dịch vụ xã hội của phụ nữ DTTS. Qua đó có thể đề ra được những giải pháp cụ thể nhằm tăng cường, mở rộng tiếp cận dịch vụ xã hội của nhóm đối tượng này.
Sau phần khai mạc Hội thảo, nhóm nghiên cứu bao gồm TS. Lê Thị Đan Dung và TS. Vũ Thị Thanh đã trình bày những kết quả chính của nghiên cứu tập trung vào việc tiếp cận y tế, giáo dục, thông tin của phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTD) ở Thanh Hóa. Nghiên cứu được thực hiện tại xã Trung Lý, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa là xã có đông dân tộc thiểu số sinh sống. Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù cơ sở vật chất cũng như các dịch vụ giáo dục, y tế ở địa bàn nghiên cứu đã được cải thiện nhằm đảm bảo người dân có thể tiếp cận được các dịch vụ này, việc tiếp cận giáo dục, thông tin và y tế của phụ nữ DTTS ở Mường Lát hiện nay còn rất hạn chế. Nguyên nhân của vấn đề này bao gồm cả những yếu tố chủ quan (thuộc về bản thân phụ nữ) và những yếu tố khách quan (yếu tố văn hóa xã hội). Về yếu tố chủ quan, sự hạn chế về năng lực của phụ nữ DTTS, đặc biệt là việc không biết nói tiếng phổ thông đã hạn chế họ rất nhiều trong việc tiếp cận thông tin và y tế. Việc kết hôn sớm cũng là yếu tố cản trở cơ hội giáo dục của phụ nữ. Tâm lí e ngại cũng là cản trở lớn đối với bản thân phụ nữ DTTS trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội, nhất là dịch vụ y tế. Bên cạnh đó, khả năng di chuyển (sử dụng phương tiện đi lại như xe máy) cũng là rào cản trong việc tiếp cận y tế của phụ nữ DTTS bởi họ phải phụ thuộc vào người đàn ông trong gia đình để có thể di chuyển đến cơ sở khám, chữa bệnh.
Về yếu tố khách quan, sự tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ, không coi trọng việc học hành đối với phụ nữ là một yếu tố cơ bản dẫn tới tình trạng bỏ học phổ biến ở trẻ em gái DTTS. Ngoài ra, những khó khăn về kinh tế và việc cần nhân lực lao động cũng khiến nhiều gia đình lựa chọn cho trẻ em gái nghỉ học. Đối với tiếp cận y tế, chất lượng y tế, khoảng cách tới các cơ sở y tế và chi phí khám, chữa bệnh là những rào cản chính trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, đặc biệt là y tế tuyến cơ sở của người dân nói chung và phụ nữ ở huyện Mường Lát nói riêng .
Sau phần trình bày của nhóm nghiên cứu, các đại biểu tham dự đã có sự trao đổi và đặt câu hỏi với nhóm nghiên cứu. Đặc biệt đã có rất nhiều chia sẻ của các đại biểu tham dự về thực tế tiếp cận dịch vụ xã hội của phụ nữ DTTS ở những xã khác (ngoài xã Trung Lý nơi mà nghiên cứu được tiến hành). Theo đó, các ý kiến chia sẻ cho rằng, định kiến giới và hạn chế về cơ hội việc làm cũng như nhận thức của phụ nữ là những rào cản tiếp cận giáo dục của phụ nữ DTTS. Trong khi đó, vấn đề cơ sở vật chất (hệ thống trạm y tế, cơ sở vật chất trạm y tế, đường xá đi lại) là cản trở lớn đối với phụ nữ trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế. Các đại biểu cũng bổ sung, đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội của phụ nữ DTTS, trong đó nhấn mạnh vào nâng cao nhận thức của phụ nữ và cải thiện đời sống cũng như cơ sở hạ tầng ở đây.
Lê Thị Đan Dung