QUYỀN HƯỞNG AN SINH XÃ HỘI VÌ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Nguyễn Hoài Hương*
An sinh xã hội (ASXH) là một khái niệm còn khá mới mẻ đối với đại đa số người dân nước ta, mặc dù về mặt chế độ thì nó có mặt trong thực tiễn xã hội Việt Nam đã từ lâu, đặc biệt là trong chế độ bao cấp trước đây. Quyền hưởng ASXH vì mục tiêu Phát triển con người (PTCN), chính vì vậy, càng là một vấn đề mới, ngay cả trong giới nghiên cứu. Bài viết sẽ xem xét việc thực thi quyền hưởng ASXH dưới góc độ PTCN, trên cơ sở làm rõ khái niệm ASXH và quan hệ giữa ASXH với PTCN[1].
Về khái niệm Quyền An sinh xã hội
Quyền được hưởng ASXH (right to social security) được đề cập trong Điều 22 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR), theo đó: “...mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã hội..."
Quy định trong Điều 22 UDHR sau đó được tái khẳng định ở Điều 9 của Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR), trong đó nêu một cách ngắn gọn rằng, các quốc gia thành viên Công ước này thừa nhận quyền của mọi người được hưởng ASXH, kể cả bảo hiểm xã hội (BHXH).
Liên quan đến Điều 9 ICESCR, Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa chưa có bình luận chung nào cụ thể, tuy nhiên, trong hướng dẫn thiết lập báo cáo quốc gia về việc thực hiện Công ước, Ủy ban xác định khái niệm ASXH bao gồm các chương trình cụ thể về:
-
chăm sóc y tế;
-
trợ cấp tàn tật;
-
trợ cấp tuổi già;
-
trợ cấp tai nạn lao động;
-
trợ cấp đau ốm bằng tiền;
-
trợ cấp thất nghiệp;
-
trợ cấp gia đình;
-
trợ cấp làm mẹ;
-
trợ cấp cho người còn sống (survivors’ benefits).
Cũng trong hướng dẫn này, Ủy ban đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập các chương trình ASXH cụ thể cũng như việc dành một tỷ lệ thích đáng ngân sách quốc gia cho việc xây dựng quỹ bảo đảm quyền ASXH. Nhìn vào các chương trình trên đây về ASXH, có thể nhận thấy rằng nội dung của ASXH chủ yếu được đề cập về trợ giúp và BHXH (ngoại trừ một nội dung đề cập tới chăm sóc sức khỏe).
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), “An sinh xã hội chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình, bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ.”[2] Như vậy là, cũng như Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, quan niệm của ILO nhấn mạnh vào bảo hiểm và trợ giúp xã hội: “chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế, xã hội bằng các biện pháp công”.
Về mục đích của ASXH, có sự tương đồng giữa các nước, tức là đều nhằm mục đích thực thi quyền con người cơ bản (đảm bảo một cuộc sống an toàn), ASXH được sử dụng như là công cụ xây dựng một xã hội hài hòa, văn minh và không có sự loại trừ. Tuy vậy, việc sử dụng từ ngữ diễn đạt và ý nghĩa của khái niệm này thì phần nào có sự khác nhau giữa các nước, khu vực và tổ chức quốc tế: ở Anh, ASXH (Social Security) nhấn mạnh hàm nghĩa bảo đảm về mặt kinh tế, còn ILO và Liên minh châu Âu thì nhấn mạnh hàm nghĩa bảo hộ về mặt xã hội, khi thay cho từ Social Security người ta thường dùng từ Social Protection.
Tuy nhiên, người ta cũng dễ nhất trí với quan điểm cho rằng ASXH là việc nhà nước hay xã hội cung cấp các dịch vụ xã hội như y tế và chăm sóc sức khỏe, bảo đảm thu nhập dựa vào việc điều hòa thu nhập nhằm ngăn chặn nghèo đói, cứu trợ người nghèo ổn định cuộc sống trước những vấn đề nguy cơ mang tính cá nhân nảy sinh trong cuộc sống như ốm đau, bị thương, sinh đẻ, tàn tật, tử vong, cao tuổi và thất nghiệp,... còn về mặt công thì ý nghĩa có rộng hơn, ngoài phúc lợi xã hội có thể còn bao gồm cả lĩnh vực vệ sinh công cộng[3].
Gần đây, ILO còn lên tiếng kêu gọi các nước thành viên Liên hợp quốc cần phải đảm bảo BHXH như là quyền cơ bản của con người về ASXH. ILO nhấn mạnh BHXH là các dịch vụ thiết yếu của con người trong các lĩnh vực việc làm, giáo dục, y tế, nước sạch và các điều kiện vệ sinh, dinh dưỡng và hỗ trợ gia đình nhằm bảo vệ và trao quyền cho người nghèo và các cộng đồng dễ bị tổn thương trong xã hội để giúp họ thoát khỏi đói nghèo. Tổng giám đốc ILO Juan Somavia cho biết, trên toàn cầu, 80% số người ở độ tuổi lao động không được hưởng chính sách BHXH thích hợp, không được tiếp cận sự trợ giúp về ASXH, y tế và trợ cấp thất nghiệp. Các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và khủng hoảng lương thực đã đẩy thêm 98 triệu người trên thế giới trở lại cuộc sống cùng khổ, 24% người lao động nghèo trên thế giới hiện nay là thanh niên và thanh niên hiện chiếm tới 13% số người thất nghiệp trên toàn cầu. Chủ tịch Ủy ban toàn cầu về bảo vệ xã hội, cựu Tổng thống Chi-lê Michele Bachelet khẳng định vai trò không thể phủ nhận của BHXH trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu mới đây. BHXH không chỉ ngăn chặn hàng triệu người không bị rơi vào cùng khổ nhờ được tiếp cận các dịch vụ xã hội thiết yếu mà còn giúp ngăn chặn nguy cơ rối loạn xã hội. Các chính sách BHXH trong thời gian tới sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Vì vậy, cộng đồng thế giới cần liên minh và phối hợp hành động để BHXH đem lại lợi ích cho tất cả mọi người[4].
Thuật ngữ tiếng Anh của ASXH (Social Security) còn được dịch sang tiếng Việt là bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an ninh xã hội, hay an toàn xã hội,… với những ý nghĩa không hoàn toàn tương đồng nhau. Tuy nhiên, theo quan điểm của Viện Khoa học lao động và xã hội, ASXH là sự bảo đảm mà xã hội cung cấp cho các thành viên thông qua việc thực thi hệ thống các cơ chế, chính sách và can thiệp trước các nguy cơ, rủi ro có thể dẫn đến suy giảm hoặc mất đi nguồn thu nhập của họ. Hệ thống ASXH gồm các cơ chế, chính sách, giải pháp tạo ra nhiều tầng, nấc bảo vệ cho các thành viên trong xã hội không bị rơi vào tình trạng bần cùng hoá do tác động tiêu cực của các loại hình rủi ro.
Hệ thống ASXH hiện nay của Việt Nam gồm có nhiều bộ phận cấu thành khác nhau với 4 trụ cột chính là BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, và trợ giúp xã hội; trong đó nổi bật hơn cả là BHXH và trợ giúp xã hội. Hiện nay, cùng với sự tăng trưởng kinh tế xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của con người ngày càng được nâng cao, vấn đề ASXH cũng ngày càng được quan tâm nhiều hơn[5].
Như vậy, căn cứ vào các quan điểm và định nghĩa của các tổ chức quốc tế và trong nước, ở đây chúng tôi khoanh gọn vấn đề cần xem xét là quyền hưởng ASXH chủ yếu vào hai mảng là quyền tham gia BHXH và hưởng trợ giúp hay trợ cấp xã hội (TGXH).
Mối quan hệ giữa Quyền An sinh xã hội với Phát triển con người
ASXH có nguyên tắc cơ bản là đảm bảo sự đoàn kết, chia sẻ và tương trợ cộng đồng đối với các rủi ro trong đời sống, do vậy có tác dụng thúc đẩy sự đồng thuận, bình đẳng và công bằng xã hội. Xét về tổng thể, hệ thống ASXH, thông qua tác động tích cực của các chính sách chăm sóc sức khỏe, an toàn thu nhập và các dịch vụ xã hội, sẽ nâng cao năng suất lao động, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu lao động nói riêng và toàn bộ quá trình phát triển kinh tế nói chung. Xét về cá nhân, ASXH giúp những người nghèo, người gặp rủi ro vượt qua được khó khăn để nâng cao năng lực và nắm bắt cơ hội phát triển. Điều này được thực hiện thông qua sự kết hợp giữa BHXH, y tế, giáo dục và dịch vụ tài chính, cung cấp các dịch vụ công ích, đường sá và các chính sách khác nhằm giảm nghèo và quản lý rủi ro. Cụ thể là một số khía cạnh mà ASXH có thể đóng góp cho sự phát triển nói chung và PTCN nói riêng như sau:
- Mạng lưới ASXH góp phần phân phối lại thu nhập cho người nghèo và những người dễ bị tổn thương, nhanh chóng tác động lên nghèo đói và bất bình đẳng. Điều này giúp cho những người nghèo, người gặp rủi ro có thể nhanh chóng vượt qua được những khó khăn cản trở sự phát triển của họ.
- Mạng lưới ASXH góp phần tạo điều kiện cho các gia đình đầu tư tốt hơn vào tương lai. Ví dụ, về cơ bản, các mạng lưới ASXH góp phần đắc lực khắc phục các thất bại của thị trường tín dụng, cho phép các hộ gia đình đón nhận những cơ hội đầu tư mà họ không có được nếu không có chương trình an sinh - cả về vốn con người như việc đầu tư cho con cái và về sinh kế đối với những người đang làm việc để kiếm thu nhập.
- Mạng lưới ASXH góp phần giúp các gia đình quản lý được rủi ro, trước hết là giúp cho các gia đình đương đầu được với những thời khắc khó khăn để tránh những tổn thất không thể thay đổi được, cho phép họ giữ được tài sản của gia đình và tài sản kinh doanh vốn là nguồn sinh kế của họ, giúp họ nuôi được con cái và cho chúng đến trường. Thêm vào đó, với yếu tố bảo hiểm, ASXH cho phép các hộ gia đình có thể lựa chọn sinh kế giúp họ có thu nhập cao hơn. Tóm lại, các mạng lưới ASXH vừa bảo vệ cho các gia đình, vừa nâng cao khả năng độc lập của họ.
Như vậy, ASXH giúp cho người nghèo, người gặp khó khăn, rủi ro, đảm bảo được khả năng phát triển thông qua việc ổn định cuộc sống, vượt lên hoàn cảnh trong những thời điểm khó khăn để vươn tới nắm bắt cơ hội phát triển. Một hệ thống bảo trợ xã hội lâu dài, đầy đủ có thể thực hiện được những mục tiêu tái phân phối của xã hội, giải phóng các ngành khác khỏi vai trò này, để những ngành đó tập trung vào việc cung cấp dịch vụ một cách hiệu quả. Ví dụ như ngành năng lượng có thể định ra mức giá nào đảm bảo hiệu quả, còn chính sách thương mại có thể tập trung vào tăng trưởng hơn là bảo vệ công ăn việc làm. Các chương trình an sinh ngắn hạn có thể bù đắp cho những người chịu ảnh hưởng tiêu cực của các cuộc cải cách cần thiết. Từ đó, mạng lưới ASXH cũng cho phép chính phủ đưa ra những lựa chọn hướng đến mục tiêu hiệu quả và tăng trưởng[6].
Như vậy, ASXH có thể được xem là tổng thể những sự bảo vệ đa dạng cho con người khi gặp rủi ro trong cuộc sống, có thể ảnh hưởng đến một người từ khi chưa sinh ra cho đến khi người đó mất đi, đồng thời cũng có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người trong xã hội[7]. Vì thế, ASXH có liên quan chặt chẽ với PTCN, nhất là những đối tượng yếu thế hoặc rơi vào tình trạng yếu thế xã hội.
Tiêu chí đánh giá thực thi Quyền An sinh xã hội
Các thuộc tính của ASXH
Hệ thống ASXH thường là sự kết hợp của một vài chương trình, vì vậy điều lý tưởng là các chương trình sẽ bổ trợ cho nhau và bổ sung cho các chính sách công hay chính sách xã hội khác. Tuy nhiên, một hệ thống an sinh tốt không phải là một sự kết hợp cơ học của các chương trình được thiết kế và thực hiện tốt, mà còn cần thỏa mãn một số thuộc tính như:
- Tính phù hợp: Các chương trình của hệ thống cần có sự cân đối với nhau và với các chính sách công, đồng thời đáp ứng được nhu cầu cụ thể của quốc gia. Mỗi chương trình cần thay đổi linh hoạt để phù hợp nhất với hoàn cảnh.
- Tính thỏa đáng: Hệ thống mạng lưới ASXH thường nhằm tới một số nhóm đối tượng cần hỗ trợ như người nghèo kinh niên, người nghèo tạm thời, người bị ảnh hưởng bởi cải cách,... vì vậy, từng chương trình cụ thể phải tiếp cận được đầy đủ và cung cấp những hỗ trợ có ý nghĩa cho bất kỳ nhóm dân cư nào mà chương trình được thiết kế ra.
- Tính công bằng: Mạng lưới ASXH phải đối xử với các đối tượng thụ hưởng một cách công bằng, bình đẳng, cả về hàng ngang là cung cấp cùng một chế độ như nhau cho các cá nhân hay các hộ gia đình có cùng những điều kiện quan trọng như nhau, cả về hàng dọc là hỗ trợ nhiều hơn cho những đối tượng nghèo nhất.
- Tính hiệu quả về chi phí: Các chương trình có hiệu quả về chi phí phải dành hầu hết nguồn lực cho nhóm đối tượng chủ định của chương trình. Hơn nữa còn có thể tiết kiệm các nguồn lực quản lý cần thiết để thực hiện chương trình theo hai cách. Một ở cấp độ toàn bộ hệ thống, các chương trình phải tránh sự manh mún, rời rạc có thể tạo ra các hệ thống quản lý hành chính không thể cắt giảm chi phí. Thứ hai, các chương trình phải hoạt động với hiệu suất cao, với nguồn lực tối thiểu để đạt được tác động mong muốn, song vẫn đảm bảo đủ nguồn lực để thực hiện tốt các chức năng của chương trình.
- Khuyến khích thích hợp: Các mạng lưới ASXH có thể làm thay đổi hành vi của hộ gia đình theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Để đảm bảo sự cân đối của những thay đổi này theo hướng tích cực, vai trò của mạng lưới ASXH cần được duy trì ở mức độ ít nhất phải đủ. Một hệ thống ASXH thường có thể bao gồm các chương trình trực tiếp giúp tạo tài sản hoặc thu nhập cho các cộng đồng hay khách hàng cá nhân của chúng bằng cách liên kết các khoản trợ cấp với các yếu tố bắt buộc hay tự nguyện của chương trình. Các chương trình công trình công cộng có thể cung cấp tài sản vật chất cho cộng đồng. Các chương trình trợ cấp tiền mặt có điều kiện xây dựng nguồn vốn con người cho hộ gia đình. Liên kết với những dịch vụ tài chính, tìm việc làm, đào tạo hay dịch vụ chăm sóc xã hội có thể giúp cho các gia đình tăng nguồn thu nhập.
- Tính bền vững: Hệ thống ASXH cần có sự ổn định, nhất là về tài chính, hơn nữa là cả về chính trị để tránh việc chương trình phải trải qua những chu trình khởi động/dừng, vì nếu vậy sẽ mất cơ hội để quản lý hiệu quả và đạt được những mục tiêu của chương trình. Ở những nước có thu nhập thấp, các chương trình được khởi động với trợ cấp của nhà tài trợ dần dần được lồng ghép vào với khu vực công.
- Tính động (khả năng thay đổi): Hệ thống ASXH tốt sẽ tiến triển theo thời gian. Cấu trúc phù hợp của các chương trình cần linh hoạt theo sự tăng trưởng và biến đổi của nền kinh tế, khi những yếu tố chính sách khác có thay đổi hoặc khi có cải cách hay cú sốc. Việc quản lý các chương trình cụ thể cũng phải tiến triển trong quá trình giải quyết vấn đề và đề ra các tiêu chuẩn mới.
Chất lượng của một hệ thống ASXH phần nhiều nằm ở cơ cấu tổ chức thực hiện chương trình. Một chương trình trợ cấp đầy đủ trước hết cần có một hệ thống đăng ký đối tượng thụ hưởng, chế độ chi trả (thanh toán) trợ cấp cho đối tượng, và cuối cùng là quy trình đưa các đối tượng không còn phù hợp ra khỏi danh sách thụ hưởng. Một chương trình ngoại lệ có thể có nhiều yếu tố hơn như hệ thống đăng ký đối tượng thụ hưởng được bổ trợ bằng những chiến dịch tiếp cận mạnh mẽ để đảm bảo có ít lỗi loại trừ nhất; một cơ chế sàng lọc đủ mạnh để đảm bảo những người không đủ điều kiện sẽ không tham gia chương trình; một cơ chế giải quyết khiếu nại, giám sát kết quả xác định đối tượng thường kỳ,… Có thể bổ sung thêm các chế độ hay yêu cầu phi tiền mặt cho chương trình để giúp các gia đình cải thiện thu nhập. Các chức năng giám sát và đánh giá sẽ gia tăng tầm quan trọng khi chương trình trở nên phức tạp hơn, lớn hơn hoặc kéo dài hơn[8].
Nhìn chung, các thuộc tính trên đây cũng phù hợp với các tiêu chí đánh giá quyền con người và PTCN là tính sẵn có (cho tất cả mọi người, tức là tính bình đẳng), tính có thể tiếp cận (cho tất cả mọi người, tức là mọi người đều có thể tham gia), tính có thể chấp nhận (không phải với chi phí “trên trời”, tức là tính hiệu quả) và tính có thể thích ứng (theo sự thay đổi, tức là tính bền vững).
Các tiêu chí đánh giá việc thực hiện quyền hưởng ASXH
Theo định nghĩa khái quát nhất về ASXH, có thể cho rằng đó là sự bảo đảm của nhà nước trợ giúp cho con người trước những rủi ro trong cuộc sống và ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra, vì thế, tùy từng nước, sự phân loại đối tượng có quyền hưởng ASXH có thể khác nhau, nhưng ở Việt Nam có thể chia ra hai lĩnh vực chính, một là BHXH cho tất cả các đối tượng phòng khi có bất trắc xảy ra và hai là chế độ TGXH hỗ trợ giúp đỡ các đối tượng đặc biệt khó khăn trong xã hội như người nghèo, người tàn tật, người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em,...
Ở đây chúng tôi sẽ đánh giá việc thực hiện quyền hưởng ASXH trên hai mặt BHXH và TGXH theo 4 tiêu chí của PTCN tương thích với 4 tiêu chí thực thi quyền con người, đó là tính sẵn có (bình đẳng), tính có thể tiếp cận (tham gia), tính có thể chấp nhận (hiệu quả) và tính thích ứng (bền vững), 4 tiêu chí này cũng phù hợp với các thuộc tính của ASXH đã nêu trên, cụ thể:
- Tính sẵn có xem xét hệ thống hay mạng lưới BHXH và TGXH đã có sẵn ở mức nào, nói khác đi là mức độ bao trùm của hệ thống BHXH và TGXH đảm bảo cho tất cả mọi người đều được hưởng quyền ASXH một cách bình đẳng và công bằng?
- Tính có thể tiếp cận xem xét mạng lưới hệ thống BHXH và TGXH đối với các chủ thể đặc biệt là các chủ thể yếu thế trong xã hội có dễ dàng tiếp cận, tham gia được hay không?
- Tính có thể chấp nhận xem xét mức chi phí cho BHXH và TGXH đối với các đối tượng hưởng quyền này, trên thực tế, có hiệu quả (có thể chấp nhận được) hay không?
- Tính thích ứng xem xét hệ thống có mức độ linh hoạt thích ứng được với nhu cầu của các chủ thể theo sự thay đổi của thời đại một cách bền vững hay không?
Đánh giá thực thi Quyền An sinh xã hội vì Phát triển con người
Về bối cảnh và xu hướng phát triển ASXH giai đoạn 2011-2020, có thể nói thành tựu của 10 năm qua là rất to lớn, tạo thế và lực mới cho phát triển chung và tiềm lực để thực hiện ASXH. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thể hiện rõ ý chí quyết tâm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế theo hướng bền vững, do đó cơ cấu phân bổ nguồn lực sẽ tập trung nhiều hơn cho ASXH.
Dự báo xu hướng trong thời gian tới, ASXH sẽ trở thành trụ cột chính trong phát triển với cách tiếp cận dựa trên quyền, trách nhiệm và khuyến khích sự tham gia. Mục tiêu, quan điểm và định hướng phát triển hệ thống được xác định là đến năm 2020, phát triển thành một hệ thống ASXH toàn diện, đa dạng, linh hoạt, bền vững, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm cho mọi thành viên trong xã hội có mức sống tối thiểu trở lên. Để biến những mục tiêu này thành hiện thực cần nhận thức rõ thực trạng của hệ thống để có thể đề ra những giải pháp thực thi hiệu quả nhất.
-
Tính sẵn có của hệ thống bảo đảm Quyền An sinh xã hội trên hai mặt bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội nhằm đảm bảo tính công bằng trong Phát triển con người
Hệ thống ASXH, đặc biệt là cơ chế BHXH đã hình thành ở Việt Nam từ khá sớm, ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó cơ chế ưu đãi xã hội được đặc biệt chú trọng. Do ảnh hưởng của chiến tranh, kinh tế - xã hội không bảo đảm nên BHXH nói riêng và ASXH nói chung có tính ổn định không cao và chưa được xây dựng hệ thống, lâu dài, hơn nữa có sự tách bạch rõ ràng giữa BHXH và BHYT.
Từ sau khi Việt Nam thực hiện chính sách Đổi mới (1986), hệ thống ASXH đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, các chính sách an sinh được ban hành khá đầy đủ, hơn nữa thường xuyên được bổ sung, hoàn thiện theo hướng phù hợp với kinh tế thị trường. Hệ thống BHXH từ chỗ bao cấp miễn phí bởi nhà nước và giới hạn trong một số đối tượng, đặc biệt là cán bộ công nhân viên nhà nước, chuyển dần sang cơ chế đóng - hưởng, mở ra cho mọi đối tượng, quỹ BHXH được hình thành độc lập với ngân sách của nhà nước.
Bên cạnh đó, nguồn lực chi cho việc thực hiện chính sách xã hội được tăng cường nhờ quá trình tăng trưởng kinh tế những năm qua cùng với sự quan tâm của nhà nước đến vấn đề xã hội. Tỷ trọng chi từ ngân sách nhà nước cho chính sách xã hội chiếm gần 30%. Nguồn lực từ cộng đồng địa phương, cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và đặc biệt là sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cũng ngày càng tăng góp phần củng cố hệ thống ASXH. Chất lượng cung cấp dịch vụ bảo đảm ASXH từng bước được nâng cao, mức hỗ trợ cho các nhóm đối tượng thuộc hệ thống ASXH liên tục được điều chỉnh theo hướng tăng lên. Hệ thống bộ máy thực hiện chính sách ASXH được thiết lập và điều chỉnh ngày càng phù hợp theo hướng tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung cấp dịch vụ.
Qua 15 năm thực hiện chính sách BHXH, BHYT đến nay, phạm vi, số lượng đối tượng bắt buộc tham gia BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật đã từng bước được mở rộng đến mọi người lao động trong các thành phần kinh tế, loại hình BHYT tự nguyện cũng đã được pháp luật quy định nhằm tiến tới BHYT cho toàn dân. Năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật BHXH, quy định ngoài BHXH bắt buộc có thêm BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Đến năm 2009, số người tham gia BHXH bắt buộc đạt hơn 9,1 triệu người. Bắt đầu triển khai từ tháng 1/2008, sau gần 2 năm thực hiện, đã có trên 34 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện và sau 1 năm triển khai thực hiện, đã có hơn 5,41 triệu người tham gia BHTN. Quỹ BHTN đã thu được 2.799 tỷ đồng và trên 3.500 người lao động đăng ký thất nghiệp, trong đó có 600 người đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị hưởng BHTN. Tính đến cuối năm 2009, có 53,3 triệu người tham gia BHYT, chiếm 62,2% dân số, trong đó số người tham gia BHYT tự nguyện là 13,8 triệu người. Về công tác thu, BHXH Việt Nam đã tập trung và áp dụng nhiều biện pháp tổ chức thực hiện thu, đảm bảo thu đầy đủ, đúng đối tượng, kịp thời và tuân thủ đúng quy định của Nhà nước, góp phần làm căn cứ giải quyết chế độ cho người tham gia được đầy đủ, kịp thời, chính xác. Năm 2009, số thu BHXH đạt 37.011 tỷ đồng, số thu BHYT là 13.174 tỷ đồng. Việc giải quyết hưởng các chế độ BHXH, BHYT đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đúng quy định của pháp luật và từng bước cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động cũng như đơn vị sử dụng lao động. Từ năm 1995-2009, BHXH Việt Nam đã giải quyết chế độ cho gần 1,2 triệu người hưởng BHXH thường xuyên, trong đó có gần 850 nghìn người hưởng chế độ hưu trí. Số người hưởng BHXH thường xuyên tăng nhanh qua các năm, năm 2009 là 129,6 nghìn người, tăng gấp 6 lần năm 1996; Giải quyết chế độ trợ cấp một lần cho 2,9 triệu người, ốm đau cho 21,6 triệu lượt người; thai sản cho 3,5 triệu người và dưỡng sức, phục hồi sức khỏe cho 5,7 triệu người. Trong 7 năm, từ 2003 - 2009, toàn ngành đã phối hợp với các cơ sở y tế đảm bảo quyền lợi cho trên 400 triệu lượt người đi khám, chữa bệnh BHYT. Số lượt người đi khám, chữa bệnh tăng rất nhanh, năm 2009 tăng gấp 4 lần so với năm 2003[9].
Với những biểu hiện trên đây về chính sách, nguồn lực, bộ máy và chất lượng, có thể nói, hệ thống ASXH trong thời gian qua đã đạt được một mức độ nhất định về tính sẵn có và có ưu điểm là đã hỗ trợ đắc lực cho người nghèo, người yếu thế và nhiều đối tượng khác. Các chính sách ASXH từng bước được mở rộng về phạm vi, đối tượng và mức hưởng. Các chính sách hỗ trợ cũng ngày càng nhận được sự ủng hộ, tham gia của các cá nhân và cả cộng đồng dựa trên tinh thần đoàn kết, chia sẻ và tương trợ, điều này được thể hiện rất rõ qua các phong trào giúp đỡ người nghèo, đền ơn đáp nghĩa,... lan rộng trong khắp cả nước, trên nhiều lĩnh vực và có sự tham gia của nhiều lứa tuổi, thế hệ.
Tuy nhiên, theo đánh giá của những người có liên quan, kể cả những người quản lý ở vị trí cao, hệ thống ASXH Việt Nam phát triển chưa tương xứng với thành tựu phát triển kinh tế, cụ thể: độ bao phủ của hệ thống ASXH còn hạn chế (nhất là ở các vùng sâu vùng xa, nông thôn, miền núi và ngay cả đối với người nghèo ở thành thị). Chính sách ASXH được xây dựng thiếu ăn khớp, còn chồng chéo, chưa thu hút được sự quan tâm, tham gia của người dân. Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến về hệ thống ASXH chưa hiệu quả. Lý do thường được chỉ ra là các chính sách bất cập (thường ra đời đã lạc hậu, cần sửa chữa bổ sung nhưng sau một thời gian sửa đổi, bổ sung ban hành ra thì lại đã lạc hậu) thiếu đồng bộ, thiếu liên kết, việc huy động các nguồn lực còn chưa hiệu quả và vì thế chưa đảm bảo đầy đủ về tính công bằng cho tất cả mọi người đều được tiếp cận/hưởng quyền ASXH. Chính vì vậy, một trong những mục tiêu mà ngành BHXH, BHYT Việt Nam đang đưa lên hàng đầu chính là “đầu tư nghiên cứu theo hướng triển khai áp dụng nhiều loại hình bảo hiểm, xác định lại các chế độ trong hệ thống, bổ sung thêm nội dung phù hợp, đồng thời mở rộng đối tượng thụ hưởng trợ cấp và điều chỉnh lại các mức trợ cấp. Các hướng cải cách nhằm góp phần làm tăng chất lượng của chế độ trợ cấp, tăng mức độ xã hội hóa của hệ thống, đảm bảo rằng không chỉ có lực lượng công chức, viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang và người lao động có tổ chức được BHXH, BHYT mà còn cả những người lao động tự do và những đối tượng khác cũng có cơ hội tham gia quan hệ này”[10].
-
Tính có thể tiếp cận của hệ thống bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội đảm bảo tính tham gia của Phát triển con người
Sự tăng lên đều đặn của các đối tượng tham gia các loại BHXH cho thấy hệ thống ASXH nói chung đã đảm bảo cho người dân tiếp cận được với quyền hưởng ASXH, tuy nhiên, khả năng tiếp cận của nhiều nhóm đối tượng đối với một số chính sách, chương trình ASXH vẫn còn hạn chế.
Về chế độ bảo hiểm, có nhiều loại khác nhau như BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện,... có loại bảo hiểm toàn dân, tuy nhiên tùy điều kiện kinh tế, việc thực hiện có thể chưa đạt mức hoàn toàn, các đối tượng được tham gia bảo hiểm bị hạn chế, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi. Kết quả phỏng vấn tại các địa bàn với các đối tượng lao động tự do cho thấy mặc dù họ có nguyện vọng được đóng BHXH, BHYT,... nhưng lại không biết tiếp cận với hệ thống BHXH ở đâu.
Nhận xét về vấn đề này, Thứ trưởng Đàm Hữu Đắc cho rằng, trong quá trình xây dựng khung chiến lược ASXH cần phân tích thực trạng dân số và dân số lao động của nước ta, rà soát lại những đối tượng đã được tiếp cận với hệ thống ASXH và những đối tượng chưa được tiếp cận để có chiến lược phù hợp[11].
Chỉ tính riêng loại hình BHYT, mấy năm gần đây, mặc dù việc cấp thẻ BHYT cho đối tượng người nghèo đã có nhiều cải tiến nhưng vẫn còn chậm, chưa đảm bảo quyền lợi cho đối tượng. Nguyên nhân chủ yếu là do việc rà soát hộ nghèo từ cơ sở còn quá chậm. Theo quy định tại Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn thi hành, từ 1/10/2009, trẻ em dưới 6 tuổi cũng thuộc đối tượng tham gia BHYT bắt buộc và được Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí mua thẻ BHYT. Nhưng đến thời điểm này, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn mới chỉ thực hiện được việc cấp thẻ cho số trẻ em sơ sinh phát sinh tại thời điểm, còn số trẻ dưới 6 tuổi sinh từ năm 2008 trở về trước do các Phòng Lao động thương binh và xã hội (trước đó là Uỷ ban Dân số gia đình và trẻ em) quản lý, vẫn chưa có cơ sở dữ liệu đầy đủ[12]. Điều này có nghĩa là rất nhiều trẻ em trong độ tuổi vẫn chưa được tiếp cận với quyền hưởng BHYT miễn phí: Theo thống kê của BHXH Việt Nam, đến hết năm 2010, còn gần 2 triệu trẻ chưa được cấp thẻ BHYT. Nguyên nhân chủ yếu của việc cấp thẻ chưa đầy đủ cho đối tượng này là công tác bàn giao danh sách trẻ dưới 6 tuổi giữa Bộ Lao động thương binh và xã hội và cơ quan BHXH còn chậm, chưa thống nhất quy trình cấp thẻ BHYT tại địa phương
Hơn nữa, điều đáng lo ngại nhất hiện nay là, không những còn rất nhiều đối tượng hiện chưa được tiếp cận mà còn có cả các đối tượng không muốn tham gia (quay lưng lại) với BHYT. Ước tính hiện có gần 12 triệu người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhưng chỉ có 6,3 triệu người tham gia BHYT, đạt 53%. Các đối tượng chưa tham gia BHYT chủ yếu là người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là chủ sử dụng lao động không đóng hoặc trốn đóng BHYT cho người lao động, và trong khi nhận thức của chủ sử dụng lao động chưa đầy đủ, một bộ phận người lao động còn chưa thật sự quan tâm đến quyền lợi về BHYT của bản thân,…
Theo báo cáo của các địa phương, năm 2010 mới có 800.000 trong tổng số khoảng 6 triệu người thuộc hộ cận nghèo tham gia BHYT. Nguyên nhân cơ bản là do nhiều địa phương chưa kịp thời lập được danh sách hộ cận nghèo mà chỉ tập trung bình xét và lập danh sách hộ nghèo. Đặc biệt, có địa phương ngân sách nhà nước đã hỗ trợ đến 80% như Bắc Ninh, các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long được dự án hỗ trợ thêm 30%, người dân chỉ phải đóng 20% nhưng số đối tượng tham gia vẫn thấp. Số người tự nguyện tham gia BHYT còn thấp, hơn nữa đa số lại là những người mắc bệnh mãn tính, bệnh hiểm nghèo tham gia để được hưởng chi phí khám chữa bệnh BHYT. Tính đến hết năm 2010, số đối tượng tham gia BHYT tự nguyện mới đạt hơn 4 triệu người. Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cũng từng đề nghị có biện pháp mở rộng tỷ lệ bao phủ BHYT để đẩy nhanh tiến độ thực hiện BHYT toàn dân, đặc biệt là giải pháp tăng tỷ lệ bảo hiểm với đối tượng cận nghèo, học sinh, sinh viên và đối tượng tự nguyện. Bên cạnh đó là việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng BHYT, giảm tình trạng vượt tuyến, quá tải bệnh viện,... để thu hút người dân tham gia BHYT.
Về bảo hiểm thất nghiệp, theo báo cáo của các trung tâm giới thiệu việc làm, chỉ trong thời gian 10 ngày (từ 4 - 14/01/2010), đã có 3.515 người lao động đến đăng ký thất nghiệp, trong đó có 592 người đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị hưởng BHTN và 298 người đã được các trung tâm xác định đủ điều kiện hưởng, mức hưởng đang trình giám đốc Sở Lao động thương binh và xã hội ra quyết định[13]. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện BHTN, còn có những khó khăn, vướng mắc cản trở việc tiếp cận với quyền bảo hiểm như sau [14]:
- Nhận thức của người lao động về chính sách BHTN, về quyền và trách nhiệm của mình còn hạn chế, nhiều người lao động cho rằng cứ thất nghiệp là được hưởng trợ cấp và được hưởng 1 lần là 3 tháng trợ cấp để về quê nghỉ ăn tết. Người sử dụng lao động thì gây khó khăn trong việc hoàn thiện hồ sơ hưởng BHTN như các giấy tờ chứng minh về việc chấm dứt hợp đồng lao động, chốt sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động,…
- Về việc chốt sổ BHXH, hiện nay về cơ bản các cơ quan BHXH rất khẩn trương và đảm bảo tiến độ trong việc chốt sổ BHXH cho người lao động, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn vì một số doanh nghiệp nợ đóng BHXH nói chung và BHTN nói riêng nên không chốt sổ được; có doanh nghiệp chưa kịp thời làm các thủ tục để chốt sổ BHXH cho người lao động.
-Hiện Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 và Thông tư số 04/20009/TT-BLĐTBXH ngày 22/1/2009 chưa có quy định cụ thể về lý do không chính đáng từ chối việc làm do trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Sở Lao động thương binh và xã hội giới thiệu.
- Mặt khác, hiện Nghị định số 127 và Thông tư số 04 cũng chưa có quy định cụ thể các trường hợp người lao động chưa làm việc đủ tháng nhưng đã đóng đủ tháng BHTN, khi người lao động đến đăng ký thất nghiệp và làm các thủ tục hưởng BHTN thì trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Sở Lao động thương binh và xã hội có tiếp nhận để giải quyết chế độ BHTN không.
- Về kinh phí: BHTN là một chính sách mới nhưng nguồn kinh phí phục vụ cho công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến về chế độ, chính sách BHTN lại rất hạn chế[15].
Với tình trạng trên đây, có thể nói rằng, mặc dù mạng lưới ASXH, nhất là về BHXH và TGXH, đã ngày càng được mở rộng hơn song với nhiều lý do khách quan và chủ quan, còn rất nhiều đối tượng trong diện hưởng quyền ASXH vẫn chưa tiếp cận được với mạng lưới này và vì thế, có thể nói tính tham gia của PTCN (thu hút được sự vào cuộc chủ động của người dân) chưa thực sự được đảm bảo. Đó là chưa tính đến những tiêu cực cũng như hạn chế cơ hội tiếp cận tới quỹ TGXH, ví dụ quỹ vay vốn cho người nghèo như trong trường hợp đã được nêu trên Dân trí sau đây:
“Ngày 16/8/2011, UBND xã Quảng Tân, huyện Tuy Đức, Đăk Nông cho biết đã yêu cầu ông Đồng Đức Thân - Trưởng thôn 8, phải trả lại 28 triệu đồng cho 15 hộ nghèo trong thôn. Trước đó, tại cuộc đối chất do Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Tuy Đức tổ chức, ông Thân thừa nhận có vay ké của ông Võ Văn Huệ 5 triệu đồng, ông Nguyễn Mạnh Thắng 5 triệu đồng và thu 9 triệu đồng “hoa hồng” của các bà Hoàng Thị Thanh Hằng, Nguyễn Thị Kim Thoa, Nguyễn Thị Hường,… Những người này phải đồng ý chi thì ông Thân mới chịu làm thủ tục cho họ vay vốn”[16].
Ở đây dường như xuất hiện một mâu thuẫn giữa chủ trương mở rộng đối tượng tiếp cận quyền ASXH với thực tế khó khăn chủ quan và khách quan ngăn cản các đối tượng có thể tiếp cận với cơ hội thụ hưởng quyền ASXH.
-
Tính có thể chấp nhận được của bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội đảm bảo tính hiệu quả của Phát triển con người
“Khám chữa bệnh BHYT: Người nghèo đóng tiền cho nhà giàu khám bệnh” là tên của một bài báo trên trên Dân trí điện tử, ngày 18/10/2011 phản ánh một thực tế không công bằng, khó chấp nhận trong khám chữa bệnh (KCB) theo BHYT hiện nay. Đây là một trong những nguyên nhân khiến mục tiêu 80% số người dân có thẻ BHYT và coi như đạt BHYT toàn dân sẽ rất khó thực hiện vào năm 2014. Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Lê Bạch Hồng đã thẳng thắn nhìn nhận vấn đề trong Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện Luật BHYT ngày 17/10/2011 tại Hà Nội.
Tính bất hợp lý trong chi trả BHYT thể hiện ở việc không có quy định trần chi trả bảo hiểm nên cùng một số tiền đóng thẻ BHYT là 460.000đ/năm, người dân vùng khó khăn chỉ được KCB tại y tế cơ sở, chỉ được chi trả khoảng vài trăm nghìn đồng/lần, còn ở thành phố, số chi lên tới vài trăm triệu đồng/lần. Như thống kê của BHXH Hà Nội năm 2010, thành phố có 676 trường hợp thanh toán BHYT cho một lần chữa bệnh từ 100 - 400 triệu đồng, cá biệt có trường hợp 1 tỉ đồng.
Mục tiêu đạt 80% dân số có thẻ BHYT năm 2014 quả là không dễ nếu không có sự cải thiện chất lượng dịch vụ y tế và quản lý quỹ hiệu quả. Thêm một ví dụ điển hình nữa của tình trạng không công bằng: Người được hưởng lợi cao nhất từ quỹ BHYT đáng lẽ phải là người bệnh, bởi họ mới chính là người bỏ tiền ra mua thẻ, thế nhưng nhiều trường hợp, cơ sở KCB mới là phía hưởng lãi lớn. Ông Hồng dẫn chứng, Bệnh viện Đa khoa Bình Định: 100% bệnh nhân vào khám bệnh, dù khám gì cũng đều phải chụp cộng hưởng từ trước và mỗi lần như thế, bệnh viện lấy được từ quỹ bảo hiểm 2 - 3 triệu đồng. Không chỉ Bình Định, đã có nhiều cơ sở y tế bị truy tố về hành vi lập hồ sơ bệnh án khống để thanh toán BHYT.
Tại nhiều địa phương, cho dù được hỗ trợ 80% người dân vẫn không muốn mua thẻ BHYT. Quỹ bảo hiểm không được quản lý chặt, dẫn đến không ít trong đó bị xà xẻo, thất thoát, sử dụng không hợp lý. Đó hẳn cũng là lý do mà nếu không phải bắt buộc tham gia, không phải là diện người nghèo được hỗ trợ 100% mua thẻ, rất ít người dân tự nguyện tham gia mua thẻ BHYT. Và thực tế là con số đó vẫn chỉ đạt trên 10% và luôn giậm chân ở mức dưới 1 triệu người trong nhiều năm nay. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, các hộ cận nghèo được hỗ trợ tới 80% thế nhưng cũng chỉ 13% số hộ chịu bỏ 20% mệnh giá mua lấy tấm thẻ bảo hiểm. Bệnh nhân có thẻ BHYT vẫn phải chi trả những khoản thêm để mua thuốc, mua vật tư tiêu hao khác, phải nằm ghép 2, 3 đến 4 người/giường bệnh. Vì thế mà không ít người chỉ còn than thở rằng: “Thà mất tiền trả dịch vụ ngay từ đầu còn hơn có thẻ”. Đến nay, còn khoảng 34 triệu người chưa có thẻ. Mục tiêu đạt được 80% dân số có thẻ BHYT sẽ không thể cán đích vào năm 2014 nếu 3 ngành y tế - BHXH - tài chính không chinh phục được 90% số đối tượng tiềm năng nhưng cũng rất thực tế này.
Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Minh Thảo cho biết: Con số gần 40% dân số chưa tham gia BHYT đều là những hộ cận nghèo, chủ yếu là nông dân, người lao động tự do - tựu chung là những người có thu nhập rất thấp và không ổn định, nguy cơ mắc bệnh (bệnh nặng) thường là cao, vì thế xuất hiện nghịch lý là họ lại gặp nguy cơ không thể chi trả nếu phải đi viện. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng mở rộng độ bao phủ của BHYT, tuy nhiên, nếu căn cứ trên tình hình thực tế thì chỉ có thể kỳ vọng đến 2015 đạt được 75% mà thôi (mặc dù Nhà nước đã hỗ trợ 50% chi phí mua phí bảo hiểm nhưng các hộ nghèo vẫn thấy khó khăn và Bộ đang đề nghị tăng lên 70%). Điều đó có nghĩa là mục tiêu đến năm 2014 sẽ thực hiện 100% dân số tham gia BHYT khó có khả năng và đến 2015, vẫn còn 25% dân số không có BHYT phải chịu tác động của sự thay đổi viện phí theo chiều hướng bất lợi cho những người có thu nhập thấp. Ngoài ra, cũng cần phải đề cập tới một số vấn đề khác như vấn đề đồng chi trả (20%), vấn đề khống chế mức trần (40 tháng lương tối thiểu) và hạn chế danh mục thanh toán bảo hiểm cũng tác động tới cả những người đã có thẻ bảo hiểm. Đó là chưa kể tới việc viện phí tăng thì mức đóng bảo hiểm cũng tăng theo.
Liên quan đến vấn đề tăng viện phí, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh: “Tăng viện phí là rất cấp bách ở thời điểm hiện tại bởi giá viện phí đã quá lạc hậu. Tuy nhiên, cần cân nhắc sao cho mức tăng không vượt quá khả năng chi trả của người dân để vừa đảm bảo tính xã hội chủ nghĩa vừa đảm bảo tính thị trường của lĩnh vực y tế”. Tóm lại, từ tiêu chí có thể chấp nhận được, quyền hưởng ASXH của người dân vẫn còn gặp phải rất nhiều vướng mắc mà trước hết là sự bất hợp lý (không thể chấp nhận) trong mức giá chi trả xung quanh việc hưởng bảo hiểm và vì thế, có thể nói hệ thống ASXH chưa bảo đảm tính hiệu quả cho PTCN (tốn công đầu tư nhưng vẫn bị người dân quay lưng lại vì sự thiếu hiệu quả trong việc bảo đảm cho họ tính an toàn trong phát triển) .
-
Tính có thể thích ứng được của hệ thống bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội đảm bảo tính bền vững của Phát triển con người
Có thể nói, tính thích ứng được hay không của hệ thống thể hiện trước hết ở mức độ quan tâm và tích cực tham gia của đông đảo người dân (đối tượng) hay nói khác đi là không bị người dân quay lưng lại. Trong ví dụ nêu ra ở trên có liên quan đến điều này, Trưởng ban Thực hiện chính sách BHYT, BHXH Việt Nam Phạm Lương Sơn cho biết, tính đến tháng 6 năm 2011, vẫn còn khoảng 34 triệu người (40% dân số) chưa tham gia BHYT. Tại hội nghị tổng kết 2 năm thực hiện Luật BHYT do Bộ Y tế và BHXH Việt Nam tổ chức ngày 17/10 ở Hà Nội, ông Sơn đánh giá, khó khăn vướng mắc nhất hiện nay là việc mở rộng và phát triển đối tượng tham gia BHYT khi tâm lý người dân vẫn lo ngại có nhiều bệnh viện thường xuyên xảy ra tình trạng quá tải, cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực y tế còn nhiều hạn chế[17].
Hơn nữa, một trong những điều thể hiện sự thích ứng của hệ thống ASXH là sự thay đổi chính sách phù hợp, về điều này thì hiện nay Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chính sách trợ giúp đối với các đối tượng bảo trợ xã hội và Dự thảo đã được công bố nhằm lấy ý kiến góp ý của nhân dân. Theo đó, dự kiến từ 1/1/2013, những đối tượng thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội sẽ được nhận 525.000 đồng (bằng 50% mức lương tối thiểu chung). Trên cơ sở mức chuẩn này, sẽ áp dụng theo quy định đối với từng đối tượng cụ thể nhân với hệ số dao động 1 đến 1,5.
Đối tượng thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng gồm: người dưới 16 tuổi thuộc một trong các trường hợp, bị bỏ rơi mất nguồn nuôi dưỡng, mồ côi cả cha và mẹ thuộc hộ nghèo; người nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo; người khuyết tật thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, người cao tuổi thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định,... Về trợ giúp đột xuất, dự thảo đề xuất quy định: Hộ gia đình có người bị chết do thiên tai, hỏa hoạn hoặc các lý do bất khả kháng khác tại nơi cư trú hoặc ngoài vùng cư trú được hỗ trợ ít nhất là 8.000.000 đồng/người để tổ chức mai táng. Đối với người bị thương nặng phải đưa đi cấp cứu, điều trị tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được hỗ trợ chi phí khám và điều trị với mức tối thiểu là 3.000.000 đồng/người.
Bên cạnh đó, các hộ gia đình có nhà ở chính bị đổ, sập, trôi, cháy không còn nơi ở; hoặc phải di dời nhà ở khẩn cấp do nguy cơ sạt lở đất, lũ quét được hỗ trợ chi phí làm nhà, hoặc di dời nơi ở với mức tối thiểu là 15.000.000 đồng/hộ. Hộ gia đình có nhà ở chính bị hỏng nặng từ 50% phải sửa chữa được hỗ trợ chi phí với mức tối thiểu là 7.000.000 đồng/hộ; đối với người bị thiếu đói do thiên tai hoặc giáp hạt được cấp 15 kg gạo/người/tháng, tối đa không quá 3 tháng/lần, đồng thời còn được hỗ trợ phương tiện sản xuất và hỗ trợ tạo việc làm. Về hỗ trợ khẩn cấp đối với trẻ em khi xảy ra thiên tai, Dự thảo quy định, trẻ em trong hộ gia đình có bố mẹ bị chết vì thiên tai được xem xét hỗ trợ chi phí đón, đưa trẻ vào cơ sở bảo trợ xã hội, đối với trường hợp cần chăm sóc khẩn cấp trong cơ sở bảo trợ xã hội để phòng ngừa trẻ em bị buôn bán, lạm dụng, lang thang, mắc phải tệ nạn xã hội, khủng hoảng tâm lý, được hỗ trợ mức tối thiểu 1.000.000đ/trẻ,... đối với những trường hợp đang đi học, dự thảo đề xuất hỗ trợ chi phí mua sắm sách vở, đồ dùng học tập, tư trang cá nhân với mức tối thiểu là 1.500.000đ/người[18].
Tất cả những dự kiến trên đây trong Dự thảo đều được đề xuất trên cơ sở thực tế nảy sinh trong thời gian qua mà các quy định cũ đã không đáp ứng được. Tuy nhiên, cho đến khi Dự thảo trở thành chính thức và ban hành có hiệu lực, các dự kiến đó có còn phù hợp được với yêu cầu của thực tiễn hay không thì vẫn là một vấn đề chưa thể khẳng định.
BTXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện tính nhân văn sâu sắc, đồng thời là nền tảng thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. Đến nay, mức trợ cấp xã hội cho các đối tượng BTXH đã được điều chỉnh 3 lần trong giai đoạn 1994-2005: từ số tiền 24.000 đồng/tháng lên 45.000 đồng/tháng và lên 65.000 đồng/tháng. Năm 2007, mức trợ cấp được tăng lên 120.000 đồng/tháng; và năm 2010, theo Nghị định 13/2010/NĐ-CP, mức trợ cấp tăng lên 180.000 đồng/tháng. Sự điều chỉnh của mức trợ cấp xã hội là hết sức cần thiết, nâng cao chất lượng cuộc sống của các đối tượng BTXH. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tế, nhiều người vẫn không khỏi băn khoăn: với tốc độ lạm phát như thời gian qua, mức trợ cấp xã hội mới có như “muối bỏ bể”? Năm 2007, khi Nghị định 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ vừa có hiệu lực, nhiều chuyên gia trong ngành đã đánh giá là quá lạc hậu, không theo được tốc độ trượt giá của thị trường. Từ đó cho đến nay, cũng phải mất 3 năm các cơ quan chức năng mới cho ra được Nghị định 13/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 67/2007/NĐ-CP. Trong khoảng thời gian chờ đợi nghị định mới, các trung tâm BTXH hết sức lao đao trong việc bảo đảm chất lượng cuộc sống cho các đối tượng bảo trợ. Việc xác định chế độ TGXH, trợ giúp khác phải tính đến khả năng chi trả của ngân sách nhà nước, theo mức độ tăng trưởng của nền kinh tế. Chủ trương của nước ta là xã hội hóa công tác BTXH. Đây là việc làm cần thiết, tuy nhiên xã hội hóa chỉ là phần phụ thêm, bởi lẽ không phải lúc nào địa phương cũng kêu gọi được các "mạnh thường quân" hỗ trợ. Vai trò Nhà nước thể hiện ở việc chăm lo phúc lợi xã hội mà trước hết là bảo đảm về cơ bản cuộc sống của người dân. Với điều kiện sống tại thời điểm hiện nay, trợ cấp phải bằng mức chuẩn nghèo mới bảo đảm an toàn cuộc sống![19] Tình hình này cho thấy, hệ thống ASXH chưa đảm bảo được tính thích ứng: có thể đáp ứng linh hoạt với sự thay đổi của cuộc sống nhằm đảm bảo quyền hưởng ASXH của người dân một cách kịp thời và vì thế còn thiếu tính bền vững cho PTCN.
Kết luận
Vấn đề ASXH phát triển mạnh trong thế kỷ XX khi mà quyền được hưởng ASXH đã được công nhận một cách rộng rãi trong luật quốc tế, trở thành một phần của luật kinh tế xã hội và văn hóa, một trong hai thành tố quan trọng nhất của quyền con người. Vào cuối thế kỷ XX, nhiều quốc gia trên thế giới đã mở rộng phạm vi ASXH ra nhiều loại rủi ro như ốm đau, thai sản, thất nghiệp, tuổi già, tai nạn lao động, phụ cấp gia đình, tàn tật và tử tuất. ASXH đã trở thành một nhân tố không thể thiếu nhằm đảm bảo sự ổn định xã hội, sự phát triển con người bền vững, thông qua việc điều chỉnh nhằm đáp ứng được những nhu cầu của người lao động nói riêng và người dân nói chung trong bối cảnh toàn cầu hóa với những thay đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh quốc tế mà Việt Nam đang tích cực hội nhập, hệ thống ASXH cũng đang được Việt Nam nỗ lực triển khai. Mặc dù trên thực tế, các chế độ trong hệ thống ASXH đã xuất hiện từ lâu tại Việt Nam và tồn tại ngay trong thời kỳ bao cấp trước đây, tuy nhiên cũng do vậy mà tính bao cấp, miễn phí từ nhà nước chiếm ưu thế chủ đạo. Điều này một mặt làm cho ASXH trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước, về lâu dài không thể duy trì được sự đáp ứng nhu cầu của các đối tượng cần được bảo đảm, mặt khác tạo ra tâm lý bao cấp chủ yếu đối với đội ngũ viên chức nhà nước mà chưa thực sự mở rộng ra cho mọi đối tượng người dân như là sự thực thi một quyền con người cơ bản. Hiện nay, hệ thống ASXH nói chung và hệ thống BHXH nói riêng ở Việt Nam đã bắt đầu có những biến đổi mạnh mẽ trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, để mọi người dân đều được hưởng lợi của hệ thống ASXH như một sự thụ hưởng quyền con người cơ bản vì mục tiêu PTCN, hệ thống ASXH cần phải vượt qua rất nhiều thách thức như đã thấy trong phần khảo sát ở trên, đó là cần mở rộng độ bao phủ cả về số lượng và cách thức tiếp cận, đảm bảo cho tất cả mọi người đều được bình đẳng tham gia vào hệ thống, đồng thời vừa phải nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng một cách linh hoạt và hiệu quả, bền vững đối với những nhu cầu đang nảy sinh trong hoàn cảnh mới. Cuối cùng, có thể cho rằng nhằm thực hiện mục tiêu này, mục tiêu “ASXH là bảo đảm thực hiện quyền con người”[20], hệ thống giải pháp cần được thực hiện, cơ bản sẽ là: Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật; Bảo đảm nguồn lực và cơ chế tài chính; Hoàn thiện bộ máy của hệ thống ASXH.
* ThS.; Ban Khoa giáo, Đài Truyền hình Việt Nam.
[1] Bài viết trong khuôn khổ Đề tài cấp bộ “Một số vấn đề cơ bản về quyền văn hóa, xã hội và điều kiện đảm bảo thực thi giai đoạn 2011-2020 vì mục tiêu phát triển con người”.
[2] Công ước số 102 - công ước quan trọng nhất của ASXH, được Hội nghị toàn thể ILO thông qua năm 1952.
[3] ASXH chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình, bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ (Wikipedia).
[4] 80% số người lao động trên thế giới không được bảo hiểm xã hội thích hợp, QĐND, 19/08/2010.
[5] ASXH và Chiến lược ASXH Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (Hội LHPNVN), 3/12/2010, Center for Economics and Community Development (ECCO).
[6] Mặc dù rất hữu ích, song các chương trình ASXH không phải là “thần dược chữa bách bệnh” và có nhiều mối quan ngại thực sự về việc liệu có đủ chi phí để trang trải cho chúng hay không, có khả thi không, có nên làm không về mặt quản lý hành chính, nếu nhìn vào những động cơ tiêu cực khác nhau mà chúng có thể tạo ra. Trong nhiều bối cảnh, khi có quyết tâm chính trị, những mối quan ngại này có thể được giải quyết bằng việc thiết kế và thực hiện cẩn trọng. Tuy nhiên, vẫn còn có rất nhiều ý tưởng khác nhau về những chủ đề này. Theo "Về bảo trợ và thúc đẩy xã hội - Thiết kế và triển khai các mạng lưới an sinh hiệu quả" của Ngân hàng thế giới (WB) xuất bản năm 2008. (Mạng lưới ASXH đóng góp như thế nào vào chính sách phát triển? Viện Khoa học lao động và xã hội. 10/9/2010).
[7] Blanpain R. et al, International Encyclopedia of Laws: Social security Law, vol. 1 ILO 12.
[9] Ngày 24/02/2010, tại Hà Nội, BHXH Việt Nam đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 15 năm ngày thành lập và đón nhận Huân chương Độc lập hạng nhì. Đến dự, có Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng, Chủ nhiệm Uỷ ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội Trương Thị Mai, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh, Thứ trưởng - Tổng Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam Lê Bạch Hồng, đại diện lãnh đạo các cơ quan có liên quan và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam,… Thứ trưởng - Tổng Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam Lê Bạch Hồng đã báo cáo sơ bộ tình hình phát triển của ngành.
[10] Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hường. Pháp luật an sinh xã hội. Nxb. CTQG, 2011, tr.313.
[11] Trong buổi Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Ngân làm việc với Viện Khoa học lao động và xã hội về Dự thảo Khung chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011-2020. Cập nhật ngày 06/05/2009.
[12] Bộ Lao động thương binh và xã hội - BHXH Lạng Sơn: Cấp thẻ BHYT kịp thời, đảm bảo quyền lợi người tham gia, 11/01/2010.
[13] Những địa phương có nhiều người đăng ký và đề nghị hưởng BHTN như Tp.Hồ Chí Minh có 1.926 người đến đăng ký thất nghiệp, trong đó có 63 người nộp hồ sơ hưởng, 20 người đang trình giám đốc Sở ra quyết định hưởng; Bình Dương có 655 người đến đăng ký thất nghiệp, trong đó có 306 người nộp hồ sơ hưởng, 243 người đang trình để ra quyết định hưởng; Đồng Nai có 131 người đến đăng ký thất nghiệp, trong đó có 27 người nộp hồ sơ hưởng, 2 người đang trình để ra quyết định hưởng.
[14] Ý kiến của ông Nguyễn Đại Đồng, Cục trưởng Cục Việc làm - trong buổi họp báo thông tin về tình hình triển khai thực hiện chính sách BHTN chiều ngày 14/01/2010, tại Hà Nội, Bộ Lao động thương binh và xã hội tổ chức.
[15] Cục Việc làm, Họp báo thông tin về Tình hình tiếp nhận đăng ký thất nghiệp và giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp, 15/01/2010.
[16] Theo danviet – 18/8/2011, “Trưởng thôn ăn chặn tiền vay của người nghèo”.
[17] Dân trí – 18/10/2011 - 40% dân số không “mặn mà” với bảo hiểm y tế
[18] “Dự kiến mức trợ cấp xã hội bằng 50% lương cơ bản”. Dân trí điện tử 21/4/12.
[19] Quỳnh Anh, “Tăng mức bảo trợ xã hội từ ngày 13-4: Chưa hết băn khoăn”. Hà Nội mới Online, 6/4/2010.
[20] ILO, Giới thiệu về An sinh xã hội, Giơ-ne-vơ, 1992.
Nguyễn Hoài Hương