MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI NƯỚC TA HIỆN NAY
Phan Trọng Hào*
Phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và an sinh xã hội là những phạm trù khác nhau, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Giải quyết mối quan hệ giữa chúng, về thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên nguyên tắc tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội.
Mối quan hệ này ngày càng được thế giới nhận thức rõ hơn và được coi là trọng tâm của chính sách phát triển ở mọi quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế. Bởi lẽ, để đạt được mục tiêu này không hề dễ dàng, thậm chí còn mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và bảo đảm an sinh xã hội. Ngày nay, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội là mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia.
Đối với Việt Nam - nước đang phát triển chịu sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì việc giải quyết mối quan hệ này càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, vấn đề gắn kết giữa phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo đảm an sinh xã hội được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Về nhận thức lý luận, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo đảm an sinh xã hội là quan điểm nhất quán, xuyên suốt đã được khẳng định trong hầu hết các văn kiện đại hội Đảng, nhất là các văn kiện trong thời kỳ đổi mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng ta đã chỉ rõ quan điểm phát triển xã hội: ''Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội"; "Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế"[1].
Tiếp đó, đến Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa VI (tháng 3-1989), Đảng ta đã bổ sung quan điểm về giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội: "Đổi mới cách xem xét và giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng bảo đảm sự thống nhất hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội''[2].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) tiếp tục khẳng định và làm sáng tỏ thêm vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội: "Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân"[3]. Đồng thời, chỉ rõ vai trò của chính sách xã hội đối với phát triển kinh tế: "Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế''[4].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng đã xác định phải kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”[5]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”[6]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tái khẳng định quan điểm trên và bổ sung thêm: “Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”[7].
Từ nhận thức và quan điểm chung trên đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách, giải pháp về kinh tế và xã hội để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, vừa đảm bảo an sinh xã hội. Đặc biệt, trong nhiều năm Việt Nam đã thực hiện thành công chủ trương, chính sách khuyến khích làm giàu đồng thời tích cực giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các tầng lớp dân cư thông qua thực hiện chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo, các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo,... Các chính sách xã hội ban hành đã tiếp cận và phản ánh những giá trị nhân văn của nền văn hóa Việt Nam; thể hiện lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng công dân; điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, nhằm mục đích cao nhất là thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đó là một hệ thống chính sách rất cơ bản như phát triển nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo và dạy nghề; chính sách tạo việc làm; chính sách phân phối tiền lương và chế độ đãi ngộ lao động công bằng; chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân; chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em; chính sách an sinh xã hội; chính sách bình đẳng giới,...
Trên thực tế, nhờ thực hiện các chính sách kinh tế và xã hội trên đây, việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo đảm an sinh xã hội ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử của quá trình đổi mới và phát triển đất nước, thì trên thực tế, Việt Nam còn nhiều bất cập cả về nhận thức và tổ chức thực hiện, cũng như đang đứng trước những nhiệm vụ phức tạp cần giải quyết theo yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, nổi bật là: Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải; quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển và vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội, đe dọa chủ quyền quốc gia.
Để giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và bảo đảm an sinh xã hội cần tập trung làm tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Biện pháp này nhằm đáp ứng yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển là phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững. Thực hiện tốt biện pháp này cần phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”[8]. Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng, văn minh. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo; phát triển mạnh khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức góp phần vào sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Tạo bước phát triển mạnh mẽ về văn hóa, xã hội. Tăng đầu tư của Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh huy động các nguồn lực của xã hội để phát triển văn hóa, xã hội.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với mục tiêu, chính sách xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững[9].
Cần coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững; coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Các chính sách xã hội cần hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội.
Hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ công cộng thích ứng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không ngừng nâng cao mức bảo đảm các dịch vụ công cộng thiết yếu cho nhân dân.
Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,... Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi và không ngừng nâng cao mức sống đối với người có công. Mở rộng các hình thức trợ giúp và cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khăn, các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Tăng tỷ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm.
Thứ ba, chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm phúc lợi xã hội; cải thiện đời sống, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo, giảm chênh lệch giàu nghèo, giải quyết các bức xúc của nhân dân.
Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức xóa đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xóa đói, giảm nghèo bền vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo.
Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.
Thực hiện tốt các chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người lao động. Bảo đảm quan hệ lao động hài hòa, cải thiện môi trường và điều kiện lao động.
Phải đặc biệt coi trọng việc phát triển hệ thống chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện, nhất là bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh và viện phí phù hợp; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Thực hiện tốt chính sách khám, chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em và người dân tộc thiểu số, chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi.
Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
Thứ tư, đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông.
Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, giáo dục cộng đồng, đề cao vai trò giáo dục của gia đình đối với thanh, thiếu niên về tác hại của ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác. Đấu tranh quyết liệt với việc buôn bán, sử dụng ma túy. Có giải pháp kiểm soát và hạn chế tệ nạn mại dâm, giảm thiểu tác hại của các tệ nạn xã hội.
Huy động cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành triển khai tích cực, đồng bộ các giải pháp giảm thiểu tai nạn giao thông. Nâng cao hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật giao thông. Tăng cường hạ tầng kỹ thuật, phương tiện giao thông công cộng, năng lực tổ chức giao thông; thực hiện phương án điều tiết hợp lý cơ cấu và quản lý chất lượng các phương tiện giao thông để giảm tới mức thấp nhất tai nạn giao thông.
* PGS.TS.; Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. CTQG, H. 1996, tr.113.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H 2006, tr. 101.
[3] Sđd, Nxb. CTQG, H 2011, tr. 227.
[4] Sđd, Nxb. CTQG, H 2006, tr. 101.
[5] Sđd, Nxb. CTQG, H 2011, tr. 124.
[6] Sđd, Nxb. CTQG, H 2006, tr. 101.
[7] Sđd, Nxb. CTQG, H 2011, tr. 124.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H. 2006, tr. 101.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H 2011, tr. 124.
Phan Trọng Hào