MẤY GÓC NHÌN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
VỚI TÁI CƠ CẤU KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
HỒ BÁ THÂM *
Để nhận thức sâu vấn đề phát triển chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu tái cấu trúc nền kinh tế gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, cần phát hiện các khía cạnh vị thế toàn diện của vấn đề nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình cải cách và phát triển trên phạm vi cả nước nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng.
Theo chúng tôi, có nhiều (ít nhất là 4) khía cạnh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao: 1) không chỉ là yếu tố cấu thành quan trọng nhất, hay chỉ là 2) sản phẩm do yêu cầu của quá trình cải cách, phát triển nói trên đòi hỏi, tạo nên mà nó còn là 3) động lực, lực lượng, nguồn lực, nhân tố quyết định tái cấu trúc nền kinh tế, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững và đồng thời nó cũng là 4) mục đích, mục tiêu của của quá trình cải cách - phát triển kinh tế xã hội ấy. 5) Từ đó cần phải phát triển toàn diện, nhân văn và bền vững nguồn nhân lực, thông qua cả giáo dục đào tạo và rèn luyện trong sử dụng nguồn nhân lực một cách bền vững theo tình hình đổi mới, nhân văn và hội nhập quốc tế hiện nay.
Nếu chỉ thấy một mặt sẽ khó tránh khỏi sai lầm/thiếu sót trong khi đề ra chính sách và thực thi phát triển kinh tế xã hội và phát triển nguồn nhân lực. Ở đây cần cả tầm nhìn xa, có tính chiến lược cũng như tầm nhìn ngắn hạn, trước mắt, cấp bách cần tập trung giải quyết1.
1. Tái cấu trúc nền kinh tế và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế2
Mục tiêu và bản chất chung của tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đều đòi hỏi cao năng suất - chất lượng - hiệu quả - và sức cạnh tranh. Tái cơ cấu nền kinh tế vĩ mô là chuyển dịch cấu trúc lại nền kinh tế cả ngành nghề, thành phần kinh tế, khu vực, vùng kinh tế và nguồn lực đầu tư theo hướng đổi mới mô hình tăng trưởng. Đổi mới mô hình tăng trưởng phát triển theo chiều sâu là chính trên cơ sở kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu.
Tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng như vậy thực chất phải đi vào đổi mới sáng tạo, đi vào giáo dục, khoa học công nghệ, phân bố nguồn lực sao cho đảm bảo cho nền kinh tế và từng doanh nghiệp, từng địa bàn phải có năng suất - chất lượng - hiệu quả - và sức cạnh tranh. “Tất cả các ngành kinh tế phải thực hiện tái cơ cấu, chuyển đổi sang một cơ cấu năng suất, chất lượng, hiệu quả và có sức cạnh tranh”3. Đó cũng là mục tiêu của công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Động lực chính thúc đẩy quá trình bốn mặt nói trên là áp dụng công nghệ cao và nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC).
Những dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XII đều tập trung và nêu ra những vấn đề đó.
Theo PGS.TS. Trương Thị Hiền: Chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế được xem là một trong những giải pháp hàng đầu của Tp. Hồ Chí Minh trong giai đoạn hội nhập và phát triển kinh tế theo hướng bền vững. Tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi chúng ta phải có một cơ cấu kinh tế phù hợp với những điều kiện mới, và cơ cấu kinh tế hợp lý còn được xem như một tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng tăng trưởng. Mặt khác, với nền kinh tế quy mô như Tp. Hồ Chí Minh, tăng trưởng kinh tế cần phải được đánh giá cả về số lượng lẫn chất lượng. Và trên hết, chất lượng tăng trưởng kinh tế phải được xem là mục tiêu hàng đầu cần phải đạt được. Có như vậy thì nền kinh tế không chỉ đạt tốc độ tăng trưởng cao, ổn định mà còn có khả năng ứng phó linh hoạt với những biến động từ bên ngoài. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý theo hướng hiện đại sẽ dẫn đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế không ngừng được tăng cường, đồng thời cũng sẽ cải thiện phúc lợi xã hội, giảm đói nghèo và phát triển môi trường bền vững…4
Theo đánh giá chung của Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh: Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã góp phần tích cực, quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố theo đúng định hướng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX đề ra mặc dù một số chỉ tiêu chưa đạt do khó khăn chung của nền kinh tế thế giới và trong nước tác động. Nội bộ các ngành kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỉ trọng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao. Từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ phát triển theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và nguồn lao động chất lượng thấp sang phát triển theo chiều sâu; lấy chất lượng tăng trưởng là động lực chủ yếu để phát triển các ngành, lĩnh vực trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, ít gây ô nhiễm môi trường; sử dụng nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái5. Có như vậy mới có sức cạnh tranh.
Cạnh tranh của nền kinh tế gồm sức cạnh tranh của năng lực quản trị, khoa học công nghệ, NNLCLC, năng suất lao động và của chất lượng sản phẩm làm ra. Quan trọng nhất tạo ra sức cạnh tranh tổng hợp đó là do NNLCLC. Cho nên sự cạnh tranh của nguồn nhân lực là quan trọng nhất. Nhưng đầu ra của chúng - tổ hợp nói trên là chất lượng sản phẩm.
Điều bàn sâu hơn ở đây là vấn đề vừa tái cấu trúc nền kinh tế (rộng hơn chuyển dịch cơ cấu kinh tế) vừa tái cơ cấu nguồn nhân lực, trong đó không chỉ tái cơ cấu nguồn nhân lực mà còn vừa nâng cao chất lượng - trình độ, kỹ năng cho nguồn nhân lực, tạo nên NNLCLC như thế nào. Bởi vì cả tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế có quan hệ nhân quả, tương sinh/tương thành với nhau, trong đó NNLCLC là trung tâm.
Nguồn nhân lực chất lượng cao, chủ yếu là nguồn nhân lực có kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp cao, tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao, nên nguồn nhân lực, nhất là NNLCLC vừa là một nội dung cơ bản, vừa là hệ quả và là động lực, lực lượng chính, vừa là một mục tiêu của sự phát triển nhân văn, phát triển bền vững.
Trở lại vấn đề NNLCLC trong tác động nhân quả của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, cần thấy chúng ở cả thách thức và cơ hội6.
Vấn đề đặt ra là cần xem xét không chỉ với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, công nghiệp hóa đất nước mà còn với hội nhập quốc tế, tức là với các cam kết sâu và rộng hơn, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn. Theo các chuyên gia, từ quá trình hội nhập với quốc tế đó, nó hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng. Do đó cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và TPP sẽ hướng tới môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hóa quy trình xây dựng chính sách và khuyến khích sự tham gia của công chúng vào quá trình này, cho nên sẽ có tác dụng rất tốt để hoàn thiện thể chế kinh tế cũng như tăng cường cải cách hành chính7, và cần giải quyết mối quan hệ nhà nước và thị trường tạo nên sự đổi mới đồng bộ, cải cách nhịp nhàng.
2. Nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố trung tâm của cơ cấu kinh tế và tái cơ cấu kinh tế …8
Báo cáo “Sơ kết 3 năm thực hiện chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế Tp. Hồ Chí Minh (2011 - 2013) và nhiệm vụ giai đoạn 2014 - 2015” của Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh toát lên một nhận thức chung là:
Tập trung phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội thành phố trong giai đoạn mới. Mở rộng quy mô đào tạo nguồn nhân lực theo nhiều hình thức khác nhau, chú ý đào tạo công nhân tay nghề cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa9.
Khi nói về kinh tế, ngành hay đơn vị kinh tế, cố nhiên, ngoài nguồn lực vật chất là nguồn lực con người, nguồn nhân lực, những yếu tố, nhân tố và quan hệ ấy tạo nên cấu trúc kinh tế, cơ cấu kinh tế. Nguồn nhân lực vừa là nhân tố, nguồn lực, “tư bản người”, vốn con người, vừa là chủ thể năng động, sáng tạo của cơ cấu kinh tế.
Cho nên nói tái cấu trúc nền kinh tế thì trong đó phải sắp xếp nguồn nhân lực như thế nào, tái cấu trúc nguồn nhân lực như thế nào, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ra sao, là vấn đề có ý nghĩa then chốt. Vì chính có tái cấu trúc nguồn lực, trong đó quan trọng nhất là nguồn nhân lực và NNLCLC với nguồn lực tri thức, khoa học công nghệ cao. Đó cũng là “động lực chủ yếu”10 để trong tái cấu trúc nền kinh tế, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững.
Chính hai yếu tố then chốt này quyết định đối với tăng năng suất lao động, điều mà nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang vào loại thấp nhất khu vực11. Nói rộng ra là nó có ý nghĩa quyết định chung cho tổng hợp mục tiêu mà tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế hướng tới. Năng suất - chất lượng - hiệu quả - và sức cạnh tranh thể hiện trực tiếp sản phẩm làm ra, sản phẩm đủ sức cạnh tranh. Vì nếu năng suất lao động thấp, chất lượng kém, hiệu quả thấp thì làm sao có sức cạnh tranh, nên nói chung, tổng hợp mục tiêu nhất quán là năng suất - chất lượng - hiệu quả - và sức cạnh tranh. Nhưng muốn cho sản phẩm có sức cạnh tranh thì nguồn nhân lực phải chủ yếu là NNLCLC. Hiện tại NNLCLC thiếu trầm trọng. Nguồn nhân lực chất lượng thấp còn chiếm đa số và đang hết thời. “Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đứng im một thập kỉ”.12
Theo các chuyên gia, nguồn nhân lực Việt Nam đã đứng trước cánh cửa TPP và sắp hết thời của lao động giá rẻ. Lợi thế lao động giá rẻ của Việt Nam có thể chỉ duy trì được trong 5 - 10 năm tới. Không chỉ TPP mà tới đây, khi hội nhập AEC, chúng ta không chỉ nhìn thấy toàn là nguy cơ, cuộc chiến một mất một còn13…
Tuy nhiên, lao động Việt Nam khá khéo léo, chăm chỉ nhưng lại yếu về tính kỷ luật, cách điều hành, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ giúp lao động Việt Nam tăng tính chuyên nghiệp, linh hoạt. Việt Nam muốn chủ động trong cuộc chơi TPP, nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quyết định. “Các doanh nghiệp vào Việt Nam sẽ đưa công nghệ sản xuất hiện đại, lao động chất lượng cao, trong bối cảnh này, năng suất lao động chính là chìa khóa”. Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao tiệm cận khu vực và thế giới14.
Như vậy, cùng với quá trình chuyển đổi, tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng cũng là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tái cấu trúc nguồn nhân lực nói chung.
3) Nguồn nhân lực chất lượng cao là đòi hỏi tất yếu của tái cơ cấu nền kinh tế
Theo các chuyên gia, hiện nay, nội bộ các ngành kinh tế trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng tỉ trọng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, hàm lượng khoa học-kỹ thuật cao; giảm các ngành nghề thâm dụng lao động, gây ô nhiễm môi trường, dần hình thành các loại hình dịch vụ chất lượng cao hướng đến việc xây dựng thành phố trở thành trung tâm thương mại - dịch vụ, công nghiệp công nghệ cao của cả nước.
Khu vực dịch vụ vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng GDP, với giá trị tăng thêm của khu vực này chiếm 54,1% GDP, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 44,7% và khu vực nông, lâm, thủy sản chỉ chiếm 1,2% GDP.
Cơ cấu đóng góp của các thành phần kinh tế trong GDP cũng có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng có sự phát triển mạnh và đóng góp ngày càng tăng của thành phần kinh tế ngoài nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, góp phần phát huy được tiềm năng và nguồn vốn trong dân, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư, tăng thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là một cơ cấu kinh tế khá thuận lợi cho việc phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế thành phố trong những năm tới15.
Cho nên nguồn nhân lực phải tương ứng, thích ứng với yêu cầu, phương hướng của tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
Có hai vấn đề mà tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế đặt ra đối với nguồn nhân lực: một là yêu cầu/nhu cầu khách quan một cơ cấu nguồn nhân lực thích hợp nói chung; hai là đòi hỏi nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lên thành nguồn nhân lực chất lượng trung bình và NNLCLC một cách hợp lý và đi trước một bước.
Phát triển nguồn nhân lực phải đi trước một bước mới đảm bảo được và thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng,… Phát triển nguồn nhân lực thì trước hết là tái cơ cấu nguồn nhân lực. Tái cơ cấu nguồn nhân lực có cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lĩnh vực, cơ cấu vùng, cơ cấu lứa tuổi, cơ cấu giới tính, cơ cấu trình độ, cơ cấu theo đơn vị. Vấn đề này hiện tại cũng còn nhiều bất hợp lý.
Về trình độ, chất lượng nguồn nhân lực là nội dung chính phát triển nguồn nhân lực. Nhưng vấn đề hiện tại, như đã phân tích, là đa số nguồn nhân lực còn ở trình độ, chất lượng thấp. Mà trong đó thiếu nhất là kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng mềm và cả đạo đức nghề nghiệp16 (nhất là tinh thần trách nhiệm, hợp tác nhóm, tác phong công nghiệp).
Phải thay đổi sớm ba mặt, chứ không chỉ một mặt quy mô, cơ cấu hay chất lượng nguồn nhân lực như đã phân tích ở trên của thực trạng này, quan trọng nhất là chất lượng nguồn nhân lực.
4) Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố, động lực quyết định tái cơ cấu kinh tế
Nguồn nhân lực vừa là một thành phần cơ bản của sản xuất, tạo ra sản phẩm, lưu thông, phân phối hàng hóa và tái sản xuất xã hội nói chung. Nên nguồn nhân lực là yếu tố cấu thành trung tâm của cơ cấu kinh tế quốc dân hay từng ngành, đơn vị của nó, nhưng nguồn nhân lực, nhất là NNLCLC cũng là nhân tố chủ thể khởi động, điều khiển và thực hành của quá trình sản xuất và cơ cấu kinh tế, tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế như trình bày ở trên.
Tái cơ cấu nền kinh, đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế thành công hay không là do NNLCLC quyết định. Và nguồn nhân lực là nguồn động lực thúc đẩy để tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng,...
Còn nguồn nhân lực ở đây là xét ở cả các cấp độ, như: một là NNLCLC ở cấp độ quyết sách (cả NNLCLC làm nhiệm vụ chuyên gia, chuyên viên và NNLCLC làm nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý); hai là NNLCLC cả cấp độ thực thi, hoạt động trực tiếp (người lao động) tạo ra sản phẩm đủ sức cạnh tranh trong nước, trong khu vực và trên thương trường quốc tế nói chung.
Nguồn nhân lực ở chiều sâu, phải hiểu rõ, thúc đẩy và đáp ứng nhu cầu, lợi ích, động cơ và mục đích của họ, chứ không chỉ là sức khỏe, trình độ, năng lực, kỹ năng lao động, hoạt động của họ. Không hiểu điều này sẽ không hiểu tại sao nguồn nhân lực là động lực và mục đích của sự phát triển nói chung và tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa đất nước,… nói riêng.
Phải tạo ra NNLCLC nói chung và NNLCLC mũi nhọn, có khả năng tạo nên sự sáng tạo, đột phá mới có thể tái cấu trúc nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đổi mới mô hình tăng trưởng mạnh mẽ, nhanh hơn. Lực lượng này có thể là nguồn nhân lực chuyên gia, và cả nguồn nhân lực lãnh đạo - quản lý.
Tất nhiên, NNLCLC mũi nhọn phải là lực lượng cán bộ, nhân lực chuyên gia có năng lực lắng nghe, biết phản biện và có năng lực sáng kiến, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám sửa sai, dám chịu trách nhiệm cao.
Phải có môi trường thật sự dân chủ, đối thoại thẳng thắn, làm rõ sự thật và đề ra quyết sách táo bạo để thay đổi. Điều này cần học tập kinh nghiệm nước ngoài một cách hợp lý,17 và mạnh dạn thực thi dần chuẩn mực quốc tế về nguồn nhân lực. Điều này phải được lưu tâm thực hiện để tạo ra đột phá trong bối cảnh hiện nay.
5) Tái cơ cấu kinh tế nhằm phục vụ con người, vì sự phát triển nguồn nhân lực
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam lấy con người làm nhân tố trung tâm, con người vừa là động lực vừa là mục đích của sự phát triển ấy - phát triển nhân văn, phát triển bền vững18.
Tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế tạo ra: năng suất - chất lượng - hiệu quả - sức cạnh tranh chính là đảm bảo sự phát triển cao theo hướng hiện đại, phát triển nhân văn và phát triển bền vững. Từ đó nâng tầm phát triển của đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Và cuối cùng là nhằm nâng cao mức sống, chất lượng sống về cả vật chất và tinh thần của con người, của nhân dân nói chung, và cũng là của nguồn nhân lực nói riêng. Phát triển với mục đích như vậy, đến lượt nó lại nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy NNLCLC.
Quan niệm phát triển do con người, vì con người này khi được thấm nhuần trong quyết sách và nhất là trong thực thi các dự án, công trình, nhất là đối với các doanh nghiệp thì mới tránh được tình trạng chỉ coi con người là người lao động, nguồn nhân lực, coi họ chỉ là CÔNG CỤ, không quan tâm tới con người MỤC ĐÍCH.
Trong thực tiễn quan hệ lao động, nhất là trong các khu công nghiệp trong nhiều năm qua có tình trạng hoặc trả lương thấp, nợ lương, trốn tránh bảo hiểm, điều kiện lao động xấu, kém an toàn, bị o ép về thời gian, ít quan tâm đến gia đình người lao động, thiếu chỗ ở, hoặc ăn ở chật chội, thiếu nhà trẻ,… người lao động bị “vắt chanh bỏ vỏ”, chưa phát huy quyền tự do, dân chủ của họ,… đã tạo nên tình trạng mâu thuẫn, xung đột lợi ích, nảy sinh đình công, bãi công, và người lao động không yên tâm công tác lâu dài19… Đó là chưa kể không ít những công trình lãng phí, làm ra không sử dụng được, đầu tư cho có, kém chất lượng gây nên bức xúc trong nhân dân. Tình trạng này đang được khắc phục, tuy nhiên còn khó khăn và chậm chạp, và những điển hình thực hiện tốt chưa nhiều.
Nếu không quán triệt con người, đời sống con người mục đích, phát triển kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, xã hội, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước phát triển một cách sâu sắc và có hệ thống bằng hành động thực tiễn thì không thể sử dụng và phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực một cách nhân văn, bền vững. Do vậy, chính sách xã hội, chính sách an sinh phải được đề cao và thực hiện song song với quá trình phát triển kinh tế, tái cấu trúc nền kinh tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đây là một nội dung của nền kinh tế thị trường hiện đại và định hướng xã hội chủ nghĩa mà sự phát triển ở nước ta không thể coi nhẹ.
Chúng tôi nhận thấy khi nghiên cứu về nguồn nhân lực, hay đào tạo nguồn nhân lực, chúng ta chỉ mới nhắm đến tạo con người công cụ, người lao động là lực lượng sản xuất mà chưa chú ý thỏa đáng con người mục đích nên phần rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng mềm, kỹ năng sống và phẩm chất nghề nghiệp, phẩm chất công dân còn hời hợt, chưa xứng tầm. Nếu không sớm khắc phục thì khó phát huy tính năng động của con người, của nguồn nhân lực và cải cách - phát triển xã hội, phát triển nguồn nhân lực thiếu bền vững.
6) Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao như thế nào?20
Như các khía cạnh đã trình bày ở trên, chúng ta thấy việc phát triển NNLCLC hiện nay không chỉ là cơ bản, lâu dài, là một khâu đột phá chiến lược, một vấn đề cấp bách hiện nay để đáp ứng cả nhu cầu tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, mà cả hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Chính sức ép hội nhập quốc tế, tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã thúc đẩy nguồn nhân lực phải tự vươn lên, thay đổi, như “Phù Đổng”, phải có NNLCLC mà trước hết là nguồn nhân lực lãnh đạo quản lý, nguồn nhân lực chuyên gia, công nhân lành nghề,…để đáp ứng tình hình mới này, nếu không sẽ bị loại khỏi cuộc chơi!
Phát triển nguồn nhân lực và tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng - hiện đại hóa đất nước - hội nhập quốc tế có quan hệ làm tiền đề, nhân - quả, thúc đẩy lẫn nhau cùng chuyển biến, thay đổi, phát triển quá trình ấy là quan hệ nội tại có tính thống nhất - đối lập, tức mâu thuẫn biện chứng trong sự triển khai của chúng. Giáo dục có vai trò thay đổi số phận dân tộc thông qua thay đổi con người, thay đổi nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, nếu giáo dục đào tạo phát triển bền vững, biết tự thay đổi để ngang tầm thời đại.
Ở Tp. Hồ Chí Minh, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm, tăng tỉ trọng khoa học công nghệ tiên tiến cũng đã tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế nhanh và hội nhập kinh tế sâu rộng, thể hiện ở quy mô sản xuất tăng nhanh và có nhiều sản phẩm tham gia thương mại quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã thúc đẩy phát triển các yếu tố nền tảng như khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, làm tiền đề cho tăng trưởng kinh tế nhanh ở giai đoạn tiếp theo. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng làm thay đổi đáng kể diện mạo kinh tế - xã hội trên khắp các vùng trong cả nước, mà thể hiện rõ nhất là sự hình thành hệ thống đô thị rộng khắp trên cả nước, hình thành bốn vùng kinh tế trọng điểm và đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh21.
Nhưng vấn đề là phát triển nguồn nhân lực là phát triển những gì, ai thực hiện, phát triển nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng, thành NNLCLC như thế nào? Như vậy, phát triển nguồn nhân lực là cả quy mô, số lượng, cơ cấu, chất lượng.
Phát triển nguồn nhân lực thành NNLCLC chủ yếu không chỉ về tri thức, hiểu biết, tức kỹ năng cứng mà chủ yếu là kỹ năng mềm22 (nhất là kỹ năng sáng tạo, lắng nghe, tiếp thu khuyết điểm, sửa chữa thiếu sót để tiến bộ, năng lực hợp tác và phản biện)23 và đạo đức nghề nghiệp (trách nhiệm, tính kỷ luật và ý thức lao động, kết hợp hài hòa các lợi ích).
Có bốn chủ thể, một là các cơ quan chính quyền, cơ quan quyết sách phải có chiến lược đào tạo, phát triển NNLCLC; hai là, người lao động phải ý thức học tập, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; ba là các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng phải thực hành có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng mới nguồn nhân lực để có NNLCLC; bốn là cơ quan, doanh nghiệp sử dụng nguồn nhân lực phải hợp tác, đặt hàng và phối hợp đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhất là về kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng mềm và đạo đức nghề nghiệp. Đồng thời phải quốc tế hóa, hội nhập hơn nữa về hoạt động đào tạo, phát triển NNLCLC.
Hiện nay, trước thách thức nguồn nhân lực trong hội nhập AEC là có 3 vấn đề. Đó là thách thức của (chất lượng) nguồn nhân lực Việt Nam: cần quan tâm nhất là kỹ năng, ngoại ngữ và tác phong công nghiệp (kỷ luật và trách nhiệm).
Phải có chương trình và phương pháp mới thích hợp trong hoạt động từ quản lý đến giáo dục và sử dụng nguồn nhân lực, nhất là với NNLCLC. Một số doanh nghiệp đã có kinh nghiệm tốt24 về vấn đề này cần được nhân rộng.
Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh, trong một báo cáo tổng kết đã nhấn mạnh: Tập trung phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội thành phố trong giai đoạn mới. Mở rộng quy mô đào tạo nguồn nhân lực theo nhiều hình thức khác nhau, chú ý đào tạo công nhân tay nghề cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa25.
Thành phố đã tập trung đẩy nhanh tiến độ đầu tư khu công nghệ cao, các khu, cụm công nghiệp chuyên ngành; tập trung quy hoạch và triển khai nhiều dự án giao thông quan trọng, tạo sự kết nối giữa thành phố với các tỉnh lân cận, giữa các quận với các huyện ngoại thành, giữa các khu công nghiệp với các cảng biển, cảng sông,... góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các quận, huyện và thành phố; tập trung đầu tư, kêu gọi xã hội hóa nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ, tay nghề (và nhất là kỹ năng nghề - Hồ Bá Thâm) đáp ứng cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.26
Không chỉ xã hội hóa mà còn cần cả quốc tế hóa phát triển nguồn nhân lực nước ta là một yêu cầu cấp bách. Đúng như PGS.TS. Phạm Thị Hồng Yến - Ban Kinh tế Trung ương đã nhận định, với thực trạng lao động của Việt Nam và các điều kiện, yêu cầu của thị trường di chuyển lao động có tay nghề và đào tạo trong khu vực ASEAN, Việt Nam cần tích cực hơn trong phát triển thị trường lao động trong nước, tập trung vào hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động khu vực cả về quy mô, chất lượng và cơ cấu ngành nghề27, cũng như chuyển dịch lao động. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách.
7) Phải thực sự đổi mới, cải cách giáo dục đào tạo để phát triển bền vững nguồn nhân lực
- Cần quán triệt và thực hiện chủ trương “Phát triển bền vững giáo dục đào tạo nguồn nhân lực”, giáo dục thông minh, cần nắm vững quan hệ biện chứng tổng quát giữa “Phát triển bền vững giáo dục đào tạo nguồn nhân lực” và tái cấu trúc nền kinh tế, hiện đại hóa đất nước, đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển bền vững nền kinh tế xã hội. Chính từ quan hệ biện chứng nói trên giữa phát triển bền vững giáo dục đào tạo nguồn nhân lực và phát triển bền vững kinh tế - xã hội mà cho ta biết tạo ra và phát huy động lực phát triển không chỉ cho lĩnh vực phát triển giáo dục đào tạo mà cả lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội hiện nay theo hướng bền vững, thông minh, nhân văn. Từ đó, định hướng vận dụng giải quyết những vấn đề gay cấn hiện nay về giáo dục đào tạo.
- Ngành giáo dục đào tạo đang khủng hoảng và cũng đang đi vào thời kỳ đổi mới, cải cách cơ bản và toàn diện lĩnh vực này, mong tiến kịp theo xu thế chuyển đổi của thời đại. Thực tế cho hay, nếu không thoát ra được tình thế hiện nay thì khó lòng mà có sự “Phát triển bền vững giáo dục đào tạo nguồn nhân lực”. Trong khi đó, năng suất lao động ở nước ta hiện đang thấp nhất khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Điều này tuy có nguyên nhân do công nghệ thấp, lạc hậu, nhưng nguyên nhân quan trọng bậc nhất là nguồn nhân lực và trình độ chất lượng nguồn nhân lực này thấp kém, có nhiều vấn đề cơ bản, cấp bách cần giải quyết. Ở đây lại thấy gốc gác nằm ở lĩnh vực giáo dục đào tạo với những hạn chế, yếu kém và hệ quả của nó. Đổi mới, cải cách cơ bản và toàn diện lĩnh vực giáo dục đào tạo chính là chuyển đổi từ nền giáo dục đào tạo trì trệ, lạc hậu, không bền vững sang nền giáo dục đào tạo bền vững, hay chính là “Phát triển bền vững giáo dục đào tạo nguồn nhân lực”.
- Muốn đổi mới, cải cách cơ bản và toàn diện lĩnh vực giáo dục đào tạo, không chỉ cần hiểu rõ xu thế thời đại, nhu cầu, đòi hỏi thật sự của đất nước về tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế như đã nói mà còn phải trở lại, đổi mới, tái cấu trúc nền giáo dục đào tạo từ gốc như triết lý và các nguyên lý giáo dục đào tạo, cũ, mới là như thế nào, cần phải thay đổi ra sao thể chế giáo dục đào tạo, công tác quản lý, quản trị giáo dục đào tạo và NNLCLC ở lĩnh vực này. “Để xây dựng lại giáo dục từ gốc, trước hết cần thay đổi tư duy giáo dục, xác định lại quan niệm về mục tiêu, yêu cầu đào tạo và chức năng của nhà trường, từ đó mới thấy rõ cần thay đổi cung cách dạy và học, thay đổi nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý giáo dục như thế nào để đạt được mục tiêu đó. Nên rà soát lại để dứt khoát từ bỏ đào tạo những mẫu người chỉ biết ngoan ngoãn chấp hành, quen được dẫn dắt, bao cấp cả về tư duy và hành động hơn là biết suy nghĩ độc lập và tự chịu trách nhiệm. Cần coi trọng rèn luyện các phẩm chất đạo đức cơ bản của con người hiện đại có cá tính nhưng bao dung, biết giao tiếp và hợp tác, biết làm việc có hiệu quả, có tư duy cởi mở với cái mới, thích dấn thân, không ngại đương đầu với thách thức, khó khăn, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm vì mục đích lớn, và nhất là trung thực và có đầu óc sáng tạo, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất công dân là những đức tính tối cần thiết trong đời sống xã hội hiện đại. Đồng thời cần quan tâm đến giáo dục thẩm mỹ, giáo dục cảm xúc, đào tạo toàn diện con người có tâm hồn và thể chất khỏe mạnh, có kỹ năng sống tốt. Đó cũng là triết lý cơ bản, đầu tiên của “Phát triển bền vững giáo dục đào tạo nguồn nhân lực”. Và phát triển bền vững con người là cơ sở phát triển bền vững nguồn nhân lực. Nhưng trước hết phải phát triển bền vững giáo dục đào tạo.28
* TS.; Viện Nghiên cứu phát triển Tp. Hồ Chí Minh.
1 Chúng tôi đã có một số bài viết và sách nghiên cứu mang tính chuyên đề về nguồn nhân lực có cả tính lý luận và tình hình thực tế cụ thể, cho nên bài viết này chủ yếu nêu khái quát ở góc nhìn đa chiều cạnh hơn, tầm triết lý của vấn đề theo lô-gích khác (chiều ngang) với các bài trước (chiều dọc) đã nêu, nhưng cũng có sự kế thừa phần nào của các bài ấy.
3 Xem thêm: Đảng cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ XII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội cấp cơ sở), Lưu hành nội bộ, 02/ 2015, Tr.11-12.; hoặc xem thêm http://m.vietnamnet.vn/vn/ban-tron-truc-tuyen/240439/-dung-phu-nhan-sach-tron-nhung-gi-vn-lam-duoc--.html.
5http://thuvienphapluat.vn/archive/Bao-cao-215-BC-UBND-so-ket-3-nam-chuyen-dich-co-cau-chuyen-doi-mo-hinh-tang-truong-kinh-te-TPHCM-vb228618.aspx.
6 Hồ Bá Thâm (2014), “Lao động và việc làm, nhu cầu và cung ứng, đào tạo và sử dụng, vấn đề đặt ra”, Hội thảo khoa học: Biến động việc làm ở Tp. Hồ Chí Minh: thực trạng và những vấn đề đặt ra.
7 http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/tpp-la-gi-tac-dong-ra-sao-den-kinh-te-viet-nam/1079258/.
8 Hồ Bá Thâm (2013), “Chuyển sang mô hình tăng trưởng mới: Lấy phát triển bền vững con người làm trung tâm và nguồn nhân lực chất lượng cao làm khâu đột phá”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, (http://ihs.vass.gov.vn/noidung/tapchi/Lists/TapChiSoMoi/View_Detail.aspx?ItemID=92).
9http://thuvienphapluat.vn/archive/Bao-cao-215-BC-UBND-so-ket-3-nam-chuyen-dich-co-cau-chuyen-doi-mo-hinh-tang-truong-kinh-te-TPHCM-vb228618.aspx.
10 Xem Đảng cộng sản Việt Nam, “Dự thảo văn kiện trình Đại hội lần thứ XII của Đảng”, (Tài liệu Đại hội Đảng bộ cơ sở, tháng 2/2015), Tr. 12.
11 Theo Tổng cục Thống kê, năng suất lao động xã hội năm 2014 liên tục tăng trong thời gian qua, bình quân đạt tốc độ 3,7% mỗi năm trong giai đoạn 2005 - 2014. Tuy nhiên, hiện nay năng suất lao động Việt Nam chỉ bằng 1/8 của Xin-ga-po, 1/6 của Ma-lay-xi-a, 1/3 của Thái Lan và Trung Quốc. Kết quả cho thấy năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất Châu Á - Thái Bình Dương (ở những nơi có thể thu thập số liệu). Theo đó, năng suất của người lao động Việt Nam thấp hơn Xin-ga-po gần 15 lần, Nhật Bản 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. So với các nước láng giềng ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam vẫn có khoảng cách lớn, chỉ bằng 1/5 Ma-lay-xi-a và 2/5 Thái Lan,… Hơn thế, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam lại đang giảm đi. Giai đoạn 2002 - 2007, tăng năng suất lao động trung bình 5,2% mỗi năm, nhưng từ suy thoái kinh tế năm 2008, tốc độ tăng chậm lại, chỉ còn 3,3%. Có 4 nguyên nhân ảnh hưởng tới năng suất lao động của nước ta đạt thấp so với các nước trong khu vực: Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động có chuyển dịch tích cực nhưng tỉ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản vẫn ở mức cao. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn lao động thấp, cơ cấu đào tạo thiếu hợp lý; máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu. Tỉ lệ doanh nghiệp công nghệ thấp, trung bình trong toàn ngành chế biến, chế tạo chiếm tới 88% tại thời điểm năm 2012. Ngoài ra, theo cơ quan thống kê, trình độ tổ chức quản lý còn yếu cùng với hiệu quả sử dụng các nguồn lực thấp (http://www.nhantainhanluc.com/2015/07/chat-luong-nguon-nhan-luc-viet-nam-ung.html).
12 http://www.nhantainhanluc.com/2015/07/chat-luong-nguon-nhan-luc-viet-nam-ung.html.
13 “Đến thời điểm này, nếu chúng ta vẫn giới thiệu về nguồn lao động Việt Nam với những đặc điểm của hàng chục năm trước như đông đảo, giá rẻ, siêng năng,… e không còn phù hợp. Khi các ngành nghề càng ngày càng tự động hóa cao, thay đổi liên tục về công nghệ, ưu điểm lao động rẻ sẽ lỗi thời”. Hiện thị trường Mỹ đứng đầu về nhập khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam. Người lao động cũng sẽ được hưởng lợi như việc các doanh nghiệp phải thực hiện những yêu cầu khắt khe của TPP về môi trường làm việc, điều kiện an toàn vệ sinh lao động và thực hiện nghiêm túc chế độ lương, thưởng hằng năm. Bên cạnh đó, khi Việt Nam tham gia sâu vào hội nhập sẽ có nhiều doanh nghiệp FDI “nhảy vào” lĩnh vực dệt may, sẽ có cuộc cạnh tranh về nhân lực nên các doanh nghiệp càng phải quan tâm hơn đến đời sống của người lao động. Đừng để cơ hội rơi vào tay người khác. Dù mỗi năm ngành dệt may đào tạo gần 2.000 nhân lực công nghệ cao hướng vào các ngành thị trường đang có nhu cầu tuyển dụng lớn nhưng trên thực tế, việc bổ sung nhân sự cho lĩnh vực này còn rất hạn chế, thiếu hụt về kỹ năng của người lao động ở những lĩnh vực như quản lý doanh nghiệp, thiết kế, dẫn đến việc dịch chuyển lao động là bình thường.
14 Tổng cục Dạy nghề đang nỗ lực triển khai đồng bộ các chương trình theo Đề án 371 về chuyển giao các bộ chương trình; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; đào tạo thí điểm các nghề trọng điểm cấp độ khu vực ASEAN, quốc tế. Theo đó, sẽ triển khai đào tạo nghề theo tiêu chuẩn kỹ năng, người học sẽ được cấp hai bằng: bằng của Việt Nam và bằng nước ngoài tương đương. “Khi được công nhận chuẩn đào tạo, cơ hội lao động Việt Nam chiếm tỉ trọng lớn hơn, thậm chí các vị trí quan trọng như quản đốc, giám sát, sáng tạo trong các doanh nghiệp nước ngoài sẽ cao hơn”. Lợi thế lớn nhất hiện nay của Việt Nam là quốc gia có nguồn lao động chi phí rẻ dồi dào và xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong hai thập kỷ tới. Tuy nhiên, Ngân hàng HSBC cũng cảnh báo trong tương lai, khi lợi thế cạnh tranh về nguồn cung lao động giá rẻ biến mất, Việt Nam cần tính phương án dài hơi để phát triển. (Theo Lao Động), http://mail.google.com/mail/u/0/h/cuknotx9wdrn/?&th=14e62f154bad3526&v=c#14e62f154bad3526_7.
15 Hà Huy Hiệp, Thông tấn xã Việt Nam , ngày 15/07/13, http://www.vietnamplus.vn/co-cau-kinh-te-cua-tphcm-chuyen-dich-tich-cuc/211250.vnp.
16 Xem thêm Hồ Bá Thâm (2013), Văn hóa xã hội thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Văn hóa đương đại ở Nam Bộ, Nxb. Văn hóa Thông tin.
18 Xem thêm Hồ Bá Thâm (2003), Khoa học con người và phát triển nguồn nhân lực, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
19 Hồ Bá Thâm (chủ biên) (2011), Bàn về mâu thẫn xung đột lợi ích, hoặc, Mâu thuẫn xung đột lợi ích nhóm, thực trạng, xu hướng và hai giải pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia.
20 Xem thêm Hồ Bá Thâm (2015), bài tham luận: “Cần bổ sung, nâng cao kỹ năng mềm nhằm cải thiện chất lượng nguồn nhân lực để hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN (tổng hợp và kiến nghị)” (Hội thảo tại Viện Nghiên cứu và phát triển Tp. Hồ Chí Minh).
23 Có người lại đưa ra 10 kỹ năng hay 13 kỹ năng mềm. Và tùy theo quốc gia, từng thời kỳ hay từng công việc, từng loại nhân lực mà nhấn mạnh kỹ năng nào là quan trọng nhất. Theo Ủy ban đào tạo và phát triển Mỹ thì có 13 kỹ năng cần có của người lao động trong thế kỷ XXI: 1) Tư duy sáng tạo (Creative Thinking); 2) Đặt mục tiêu, tạo động cơ (Set goal); 3) Quan hệ (giao tiếp ứng xử) (Communication); 4) Lãnh đạo (Leadership); 5) Học hỏi (Learning Ability); 6) Lắng nghe (Listening); 7) Thương lượng (Negotiation); 8) Thuyết trình và diễn giải ý tưởng (Presentation); 9) Đảm bảo tính hiệu quả (Effectiveness); 10) Phát triển cá nhân trong công việc (Personal Development); 11) Giải quyết nhanh vấn đề, tìm giải pháp (Problem Solving); 12) Lòng tự tôn về bản thân; 13) Làm việc theo nhóm (Teamwork). Theo Bộ Lao động Mỹ, người lao động ở thế kỷ 21 cần có 13 kỹ năng, mà theo họ, kỹ năng tư duy sáng tạo là quan trọng nhất… Sự chiến thắng của “kỹ năng số 1 đó là sáng tạo”… Còn theo đánh giá của các doanh nghiệp, lực lượng lao động hiện nay của Việt Nam còn thiếu về kỹ năng (mức độ hài lòng của các doanh nghiệp đối với lực lượng lao động hiện tại chỉ đạt khoảng 40 - 60%). Các dự báo từ mô hình cho thấy, từ năm 2010 đến năm 2025, nhu cầu đối với lao động có trình độ kỹ năng ở mức trung bình sẽ tăng 28%, so với mức tăng 23% ở lao động có trình độ kỹ năng thấp và 13% cho lao động có kỹ năng cao.
24 Kinh nghiệm của ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) cho thấy: Trong khi xã hội luôn đánh giá cao bằng đại học thì ông tâm niệm: “Đại học không phải là tất cả, không phải có bằng đại học mới làm được việc lớn. Đại học chỉ là kiến thức nền, kiến thức cơ bản, nó có ý nghĩa với thầy giáo, giáo sư, nhà khoa học, bác sỹ,... còn trong kinh doanh thì hoàn toàn không lệ thuộc”. Với quan niệm này, tập đoàn HAGL rất rộng cửa cho những ai thiếu bằng cấp. Trong năm 2012, khi tổng lượng nhân sự của HAGL trên 20.000 người thì có khoảng 6.000 nhân viên có bằng đại học. Nhưng theo đánh giá của ông, trong số 6.000 người này, có rất nhiều người không làm được việc, không phải ai cũng thành đạt. Bên cạnh đó có những người không bằng đại học vẫn giữ những vị trí rất quan trọng, chủ chốt trong Tập đoàn. Thậm chí, một kế toán trưởng của công ty đi lên từ con số 0 trong nghề vì anh chỉ có bằng... sư phạm…. “Tôi không có bằng đại học là đúng nhưng người ta tưởng tôi không học là hiểu lầm. Ở trường đại học, các bạn chỉ học có 5 năm còn tụi tôi học trường đời tới 35 năm rồi”. Các cán bộ cấp cao ở HALG cũng thấm nhuần tư tưởng của ông nên ai cũng trong trạng thái “vừa học vừa làm”… Vì đề cao việc học nên hiếm có nhân viên nào của HAGL không được đào tạo. HAGL khẳng định: “Việc đào tạo và huấn luyện các kỹ năng, chuyên môn cần thiết được thực hiện tại nơi làm việc hoặc đào tạo các khóa học bên ngoài theo kế hoạch đào tạo của Tập đoàn được lập từ đầu năm” (Theo VTC, http://m.vietnamnet.vn/vn/kinh-te/243228/bau-duc-3-nam-truot-dai-hoc--tuyen-nguoi-khong-bang cap.html).
25http://thuvienphapluat.vn/archive/Bao-cao-215-BC-UBND-so-ket-3-nam-chuyen-dich-co-cau-chuyen-doi-mo-hinh-tang-truong-kinh-te-TPHCM-vb228618.aspx.
26 http://thuvienphapluat.vn/archive/Bao-cao-215-BC-UBND-so-ket-3-nam-chuyen-dich-co-cau-chuyen-doi-mo-hinh-tang-truong-kinh-te-TPHCM-vb228618.aspx.
27 http://www.nhantainhanluc.com/2015/07/chat-luong-nguon-nhan-luc-viet-nam-ung.html.
Hồ Bá Thâm