THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU
VÌ SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
TRẦN VĂN RÓN*
LƯƠNG ĐÌNH HẢI**
Công bằng xã hội là một vấn đề gồm nhiều nội dung lớn, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của con người và cộng đồng nói chung; trong đó công bằng đối với các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế là một nội dung rất quan trọng. Cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, cả về chiều sâu lịch sử lẫn tính đa diện, đa ý kiến về nó trong giai đoạn hiện nay cũng đã cho thấy đây là vấn đề rất phức tạp và khó giải quyết, là chủ đề mang tính kinh điển, nhưng luôn có tính thời sự và hấp dẫn các nhà lý luận ở các thế hệ khác nhau. Công bằng xã hội đối với các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay lại càng là vấn đề phức tạp hơn khi cả nội hàm khái niệm công bằng lẫn khái niệm hình thức sở hữu chưa được thống nhất và nhất quán trong thực tế. Không có công bằng xã hội tuyệt đối, siêu hình, nhưng không có công bằng xã hội thì con người, cộng đồng và xã hội không thể phát triển được. Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng từ khi bắt đầu công cuộc xây dựng đất nước, nhất là từ khi Đổi mới đến nay, vấn đề hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, vấn đề công bằng xã hội, là những vấn đề rất được quan tâm.
Cho đến nay, ở nước ta, việc xác định cơ cấu, hình thức sở hữu, thành phần kinh tế đang có những khác biệt nhất định, nhất là quan hệ cơ cấu giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, giữa các thành phần kinh tế. Vẫn còn những ý kiến khác nhau về việc sử dụng các thuật ngữ các hình thức sở hữu, thành phần sở hữu, các thành phần, các khu vực kinh tế. Thậm chí trong Văn kiện Đảng có lúc cho rằng có ba chế độ sở hữu, dù phần lớn các kỳ Đại hội chỉ nói có hai chế độ sở hữu[1]. Đầu tiên là kinh tế hàng hóa, sau đó là kinh tế thị trường đã được chính thức thừa nhận ở nước ta với tính cách là một chủ trương chiến lược lâu dài của thời kỳ quá độ. Qua 30 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường ở nước ta đã hình thành và đang phát triển, các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế đã trở thành những thực thể tồn tại khách quan và đang tác động ngày một mạnh mẽ vào đời sống kinh tế, xã hội. Nhưng ngay cả tên thuật ngữ lẫn nội hàm của "hình thức sở hữu”, “thành phần kinh tế" hiện đang có những ý kiến khác biệt. Có ý kiến cho rằng nên dùng thuật ngữ "thành phần kinh tế" thay cho “hình thức sở hữu”, lại có ý kiến khác cho rằng nên gọi là "khu vực kinh tế", có ý kiến lại cho rằng không nên phân chia các thành phần kinh tế hay khu vực kinh tế mà nên sử dụng khái niệm các "loại hình doanh nghiệp" vì nội hàm của các khái niệm trên là không rõ ràng và ít mang ý nghĩa thực tiễn. Việc sử dụng hai khái niệm nói trên trong thực tiễn điều hành kinh tế có những chỗ không rõ ràng và không mang lại những hiệu quả mong muốn. Tuy nhiên, dù là dùng thuật ngữ nào, với nội hàm ra sao thì các yếu tố kinh tế mà các thuật ngữ trên bao hàm, phản ánh là những cấu thành của hệ thống kinh tế, có quan hệ biện chứng lẫn nhau, có xu hướng vận động và có những điều kiện tồn tại, có những yếu tố tác động xác định; mối quan hệ và cơ cấu của chúng trong hệ thống kinh tế nói chung có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là không phân biệt các thành phần kinh tế, chúng đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật, không có sự phân biệt đối xử, và tạo lập môi trường bình đẳng, thông thoáng, ổn định và minh bạch để có thể phát huy tối đa hiệu quả của các thành phần kinh tế nhằm phát triển kinh tế của đất nước, phát triển con người và xã hội.
Qua các kỳ Đại hội Đảng, số lượng và tên gọi các thành phần kinh tế có những thay đổi nhất định. Năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ chỉ ra 6 thành phần kinh tế, bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế gia đình. Tại Đại hội Đảng lần thứ X, năm 2006, các thành phần kinh tế lại bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, năm 2011, các thành phần kinh tế ở nước ta lại được nhắc đến là: kinh tế nhà nước (bao gồm doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn nhà nước, đa sở hữu trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối), kinh tế tập thể (nòng cốt là hợp tác xã), kinh tế tư nhân, doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Văn kiện Đại hội dùng cùng lúc cả ba thuật ngữ nói trên: các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.
Điểm qua việc xác định các thành phần kinh tế như vậy để thấy rằng, tiêu chí xác định các thành phần kinh tế là chưa rõ ràng. Bản thân các nhà kinh điển, các nhà lý luận nói chung ở nước ta cũng chưa đưa ra được tiêu chí cụ thể để phân định các thành phần kinh tế. Các kỳ đại hội của Đảng cũng chưa nhất quán về việc phân định các thành phần kinh tế với tên gọi các thành phần kinh tế như đã nói ở trên. Việc xác định các thành phần hay khu vực kinh tế, các loại hình doanh nghiệp không những dựa trên các quan hệ sở hữu hay quy mô sở hữu mà còn dựa vào cả nguồn gốc của sở hữu (kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Mặt khác, việc phân biệt phạm vi của một số thành phần kinh tế lại không thể hiện được thực tế sống động của đời sống kinh tế xã hội của nước ta trong quá trình chuyển đổi. Xu hướng liên kết giữa các doanh nghiệp, các chủ sở hữu để hình thành nên những doanh nghiệp mới có sở hữu hỗn hợp đang là một xu thế khá nổi trội, nhất là trong điều kiện tái cơ cấu và chuyển đổi kinh tế hiện nay. Đó cũng là xu hướng nổi trội trong sự vận động của các nền kinh tế khác trên thế giới. Trong thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, do sự biến đổi nhanh chóng, thường xuyên nên sự phân định kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tiểu chủ, kinh tế cá thể trong nhiều trường hợp cũng chỉ có tính tương đối, quy mô, phạm vi và tính chất của các doanh nghiệp thuộc loại này cũng không giống như trước đây hai thập kỷ. Sự phân định kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ không phải khi nào cũng rõ ràng. Doanh nghiệp nhà nước có sở hữu 100% vốn và tài sản nhà nước đang ngày một ít đi về số lượng, các doanh nghiệp cổ phần đang có xu hướng gia tăng số lượng.
Nội hàm thuật ngữ thành phần kinh tế tư bản nhà nước cũng không thật sự rõ ràng. Hiện nay không chỉ có nhà nước phối hợp, hay chi phối các cổ đông sở hữu khác ở trong và ngoài nước, mà có cả sự liên kết, liên doanh giữa các chủ sở hữu ngoài nhà nước trong nước với nhau và các chủ sở hữu nước ngoài dưới các hình thức khác nhau. Trong số các chủ sở hữu nước ngoài có cả sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Về thực chất, thành phần kinh tế tư bản nhà nước hiện đang tồn tại ở nước ta không còn nguyên nghĩa như trong lý luận của Lênin về kinh tế tư bản nhà nước - là phòng chờ lên chủ nghĩa xã hội hay là ¾ xã hội chủ nghĩa. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước ở các nước khác trên thế giới cũng như ở nước ta hiện nay, trong thực chất, là các tổ chức kinh doanh có sở hữu hỗn hợp.
Việc phân chia các thành phần hay khu vực kinh tế, hoặc các loại hình doanh nghiệp, chủ yếu là để có những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của chúng. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, quan điểm chính thức, chính thống vẫn khẳng định rằng kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, chi phối, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế[2]. Điều đó lại mâu thuẫn với chính chủ trương của Đảng và Nhà nước là: bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế[3]. Trong hiện thực, những hệ lụy xã hội to lớn của các doanh nghiệp nhà nước trong khoảng một hai thập kỷ vừa qua, như: kinh doanh kém, lãng phí các nguồn lực, tốc độ đổi mới công nghệ chậm, năng lực cạnh tranh giảm sút, hiệu quả đầu tư kém, năng suất lao động giảm, tham nhũng,… dù đã rất nhiều lần, bỏ nhiều công sức để khắc phục nhưng không mang lại kết quả mong đợi, điều đó cho thấy việc xác định lại vị trí và vai trò của kinh tế nhà nước là rất cần thiết và là yêu cầu khách quan. Kinh tế tập thể, mà theo tinh thần trong các Văn kiện, nòng cốt là hợp tác xã, thì đang có những chuyển biến chậm chạp, không định hình rõ nét và đóng vai trò yếu ớt trong việc định hướng nền kinh tế nói chung. Có lẽ còn lâu các hợp tác xã và khu vực kinh tế hợp tác xã ở nước ta mới có được vị thế và vai trò như trong các Văn kiện mong muốn. Kinh nghiệm các nước khác cho thấy sự phân định giữa thành phần kinh tế hợp tác xã với một số thành phần kinh tế khác như kinh tế tập thể, sở hữu hỗn hợp, công ty cổ phần là rất khó khăn, ranh giới giữa chúng là hết sức linh động, thay đổi nhanh chóng theo từng giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế.
Trong bối cảnh như vậy, với một vài nét phác họa như trên, có thể thấy rằng việc xem xét thực chất của vấn đề thực hiện công bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay là không hề đơn giản. Đòi hỏi vừa công bằng vừa bình đẳng lại càng khó hơn. Điều đó, ít hoặc nhiều, mạnh hoặc yếu, có ảnh hưởng đến sự phát triển của cả kinh tế, con người và xã hội.
Nước ta mới bắt đầu phát triển kinh tế thị trường, dù đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện các lực lượng sản xuất đang ở trình độ thấp so với các thị trường khác trên thế giới, lại không đồng đều giữa các ngành, các lĩnh vực, các khu vực khác nhau. Địa bàn mà các lực lượng sản xuất có thể tạo ra cho các quan hệ sản xuất phát triển là rất đa dạng. Do vậy sự đa dạng trong các loại hình sở hữu, các thành phần hay khu vực kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, hay các hình thức kinh doanh là điều tất yếu. Cùng với sự tiến bộ của các lực lượng sản xuất đang diễn ra không ngừng và ngày một mạnh mẽ thì sự thay đổi tương ứng của các loại hình sở hữu, khu vực kinh tế, thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, các hình thức kinh doanh, cũng sẽ nhanh chóng và không ngừng, và cũng là tất yếu. Chính vì vậy, trong lúc này, một mặt, cũng cần thiết phải phân biệt rạch ròi các thành phần kinh tế, các khu vực kinh tế hay các loại hình doanh nghiệp,… để có những chủ trương, chính sách thích hợp, đồng bộ thúc đẩy chúng và toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, vấn đề quan trọng nhất trong quản lý, điều hành, chỉ đạo nền kinh tế là phải phát huy tối đa, tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các nguồn lực, các yếu tố tích cực của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy các lực lượng sản xuất phát triển nhằm phát triển kinh tế, con người và xã hội. Muốn vậy phải đảm bảo công bằng, bình đẳng một cách thích hợp, đồng bộ giữa các thành phần, khu vực kinh tế, loại hình doanh nghiệp. Công bằng, bình đẳng được đảm bảo trong thực tế sẽ là động lực mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế, con người và xã hội. Điều quan trọng không phải là vấn đề thành phần kinh tế hay khu vực kinh tế nào, loại hình doanh nghiệp hay hình thức kinh doanh nào sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy các lực lượng sản xuất phát triển và qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, con người và xã hội. Có lẽ cần phải hiểu ý nghĩa của thuật ngữ chủ đạo là ở việc đóng vai trò to lớn nhất trong việc thúc đẩy các lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy sự phát triển của đời sống kinh tế, con người và xã hội, chứ không phải theo nghĩa chủ đạo là nắm các nguồn lực phát triển nhiều nhất, hay được ưu tiên nhất về các chính sách, hay được tạo điều kiện thuận lợi nhất trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, hợp tác quốc tế, đầu tư và xuất nhập khẩu,… như hiện nay.
Vấn đề quan trọng nhất hiện nay, theo chúng tôi, để đảm bảo công bằng xã hội đối với các khu vực, các thành phần kinh tế thì nhà nước không nên xác định và không nên sử dụng tư tưởng chủ đạo mà cần quán triệt và thực hiện nguyên tắc đảm bảo công bằng, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh của tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần, khu vực kinh tế, khuyến khích sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển đúng theo quy định của pháp luật. Không nên phân biệt và đối xử một cách khác nhau trong việc tạo các điều kiện và phân phối các nguồn lực, cũng như trong tiêu thụ sản phẩm bằng các cơ chế chính sách đối với các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp khác nhau theo tư tưởng chủ đạo với nghĩa ưu tiên, ưu đãi. Loại hình doanh nghiệp nào, khu vực kinh tế nào, thành phần kinh tế nào có đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế, xã hội thì loại hình doanh nghiệp đó, khu vực kinh tế đó, hình thức sở hữu đó sẽ trở thành chủ đạo. Và vai trò chủ đạo, tất nhiên, sẽ thay đổi theo từng thời kỳ khác nhau. Tất cả các loại hình doanh nghiệp, các thành phần hay khu vực kinh tế, các hình thức sở hữu, tổ chức kinh doanh nếu được và cần được đối xử công bằng, bình đẳng trước pháp luật, thì chúng đều là những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Vai trò chủ đạo sẽ được xã hội xác định, thừa nhận theo các quy luật của nền kinh tế thị trường và thông qua đóng góp thực tiễn của chúng đối với xã hội, chứ không phải bằng mong muốn và ý chí chủ quan; và nội dung, ý nghĩa của thuật ngữ chủ đạo phải được hiểu là ở hiệu quả đóng góp xã hội, chứ không phải ở việc ưu tiên, ưu đãi các nguồn lực mà hiệu quả đóng góp xã hội lại không lớn, không tương xứng với các ưu đãi, ưu tiên đã được dành cho chúng.
Trong thực tế hiện nay, việc phân định vai trò chủ đạo, phân biệt đối xử với các loại hình doanh nghiệp, các khu vực và thành phần kinh tế, ít nhiều, cả về phương diện tâm lý lẫn hiện thực, gây nên sự bất bình đẳng, thiếu công bằng trong quá trình sản xuất và tồn tại của các doanh nghiệp nói chung. Điều đó cùng với tình trạng lợi ích nhóm đan xen trong đời sống kinh tế khiến cho xã hội mất niềm tin vào quan điểm và chủ trương rất đúng đắn là đảm bảo công bằng, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, phù hợp với pháp luật của mọi thành phần kinh tế, khiến cho các doanh nghiệp nhà nước đúng ra có thể đóng góp to lớn hơn, hiệu quả hơn vào sự phát triển chung của đời sống kinh tế, con người và xã hội, tương xứng với các nguồn lực, các chính sách, cơ chế mà chúng được hưởng, thì trái lại, thậm chí ở một số doanh nghiệp lại đang kìm hãm sự phát triển của đời sống kinh tế, con người và xã hội.
Khi nói kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, có ý kiến đã cho rằng: kinh tế nhà nước là một khái niệm rộng bao hàm trong đó nhiều yếu tố khác nhau, từ ngân sách đến tài nguyên khoáng sản, nguồn lực con người, cơ chế chính sách, các công cụ tài chính,… chứ không chỉ có loại hình doanh nghiệp nhà nước mà thôi. Nói kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo thì không chỉ các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo mà tất cả các yếu tố kinh tế khác do nhà nước trực tiếp điều hành, nắm và sử dụng đều đóng vai trò chủ đạo. Nói điều đó trong một chừng mực nhất định là đúng. Tuy nhiên, nếu so sánh với các nền kinh tế khác, kể cả các nền kinh tế đang chuyển đổi trên thế giới và trong thực tế đời sống kinh tế, xã hội Việt Nam hiện nay, thì các yếu tố khác ngoài các loại hình doanh nghiệp nhà nước như ngân sách, các công cụ tài chính tiền tệ, tài nguyên khoáng sản, rất nhiều nhà nước trên thế giới đều nắm, và nắm trực tiếp để điều hành nền kinh tế, nhưng lại không có nước nào nói rằng kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Ở Việt Nam hiện nay, trong thực chất nói kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, chủ yếu và trước hết, là nói đến các loại hình doanh nghiệp nhà nước khác nhau, trước hết là các tập đoàn kinh tế. Trong thực tế, các doanh nghiệp nhà nước được hỗ trợ, ưu đãi bằng các công cụ khác của nhà nước một cách trực tiếp, dưới dạng ưu đãi hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác, từ việc phân phối các nguồn lực phát triển như vốn, nguồn nhân lực đến các chính sách, cơ chế, từ việc xử lý các sai phạm đến việc khen thưởng, tuyên dương, từ chính sách thuế đến các chính sách nguồn nhân lực, từ các hoạt động kinh tế nội địa đến việc xuất nhập khẩu và các thông tin về kinh tế thị trường,… Tất cả những cái đó đã tạo nên những ưu thế, lợi thế nhất định cho các doanh nghiệp nhà nước trong việc cạnh tranh, không những giữa các loại hình doanh nghiệp trong nước mà cả ở các thị trường ngoài nước, giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau.
Mặt khác, những ưu đãi đối với các loại hình doanh nghiệp nhà nước lại cũng tạo ra những bất lợi cho chính các loại hình doanh nghiệp đó, khiến cho chúng chậm trễ trong việc đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, cải tiến và tổ chức quản lý, triệt tiêu tính năng động sáng tạo và khả năng phát huy tối đa các nguồn lực sẵn có và các nguồn lực được ưu đãi trong việc cạnh tranh trên các thị trường trong và ngoài nước, khiến cho hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước thường không tương xứng với các nguồn lực mà nó được sử dụng.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, kinh nghiệm của các nước trải qua kinh tế thị trường thành công trong vài trăm năm vừa qua cho thấy kinh tế tư nhân luôn là động lực chính của sự phát triển kinh tế. Ở một số nước có nền kinh tế thị trường hiện đại, doanh nghiệp nhà nước cũng tồn tại và có đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội, có những giai đoạn có đóng góp lớn, chiếm tỉ trọng không nhỏ (Anh, Pháp cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980), nhưng chưa bao giờ là chủ đạo, chưa khi nào kinh tế nhà nước là động lực chính của sự phát triển. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, với chế độ công hữu dưới hai hình thức là toàn dân và tập thể, nhà nước nắm toàn quyền điều hành kinh tế, phi thị trường thì kinh tế nhà nước đương nhiên giữ vị trí thống trị, thống soái, chủ đạo, bao trùm, một mình một sân, nắm giữ mọi nguồn lực. Nhưng khi đó trong nông thôn, phần thu nhập của hộ gia đình nông dân từ đất (5%) vẫn lớn hơn phần thu nhập từ hợp tác xã.
Trong khoảng hơn 2 thập kỷ vừa qua, tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam là tương đối nhanh, các doanh nghiệp nhà nước dù được đánh giá là có đóng góp quan trọng, tích cực vào sự phát triển đó, là nguồn đóng góp lớn cho ngân sách. Nhưng nếu loại bỏ các yếu tố được ưu đãi như là quyền, chính sách, tín dụng, cơ chế, thuế suất, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực và trong tương quan so sánh với các loại hình doanh nghiệp khác thì những đóng góp đó sẽ trở thành khiêm tốn.
Như đã nói, kinh tế nhà nước có phạm vi rộng lớn, gồm cả những yếu tố thể hiện tiềm năng kinh tế của đất nước như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lãnh thổ, sông hồ, thềm lục địa, và cả những yếu tố đang được sử dụng trực tiếp để phát triển kinh tế xã hội như các công trình hạ tầng, ngân sách, dự trữ quốc gia, các loại hình doanh nghiệp nhà nước, và trong thực tế hiện nay ở nước ta thì các loại hình doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chủ chốt. Mặc dù về mặt quan điểm trong các kỳ Đại hội của Đảng, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được lý giải là không phải ở số lượng nhiều hay ít, tỉ trọng đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân là cao hay thấp mà là ở chỗ đó là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước điều tiết và định hướng nền kinh tế, tạo điều kiện và môi trường để các thành phần kinh tế phát triển. Doanh nghiệp nhà nước được xem là công cụ vật chất quan trọng để định hướng và điều tiết kinh tế vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt để kinh tế nhà nước có thể thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế, đi đầu trong áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, trong tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế xã hội, đi đầu trong việc chấp hành phát luật, các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước. Nói tóm lại, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, còn các loại hình doanh nghiệp nhà nước lại đóng vai trò là lực lượng nòng cốt chủ lực trong kinh tế nhà nước. Do vậy, nói kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo (bao gồm các yếu tố tiềm năng lẫn yếu tố hiện thực đang được sử dụng) nhưng trong thực chất các loại hình doanh nghiệp nhà nước với tính chất là bộ phận quan trọng nhất, quyết định nhất, chủ yếu nhất của kinh tế nhà nước. Các loại hình doanh nghiệp nhà nước lại đóng vai trò chủ đạo trong kinh tế nhà nước. Các yếu tố thể hiện tiềm năng kinh tế của đất nước muốn sử dụng được thì cũng thường phải thông qua chúng.
Từ khi thực hiện đổi mới đến nay, kinh tế nhà nước, các loại hình doanh nghiệp nhà nước luôn được xem là đóng vai trò chủ đạo ít nhiều đã tạo nên sự bất công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp khác nhau, các thành phần sở hữu, tạo ra sân chơi bất bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Điều đó tạo nên sự phát triển không đồng bộ giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần sở hữu, các thành phần kinh tế. Một nền kinh tế thị trường phát triền văn minh, hiện đại trong đó có cả những doanh nghiệp lớn lẫn những doanh nghiệp vừa và nhỏ, có những doanh nghiệp nhà nước lẫn doanh nghiệp tư nhân, có cả những doanh nghiệp đầu tư nước ngoài lẫn các doanh nghiệp liên doanh,… nhưng đều được bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trong các điều kiện, thu hút nguồn lực, trong cơ chế chính sách, trong ưu đãi tạo nên một sân chơi có cùng một “luật lệ” chứ không phải như hiện nay, các vị trí khác nhau trong một sân chơi lại có những “luật lệ” khác biệt nhau. Để điều tiết vĩ mô và định hướng nền kinh tế, các nước khác nhau trên thế giới cũng sử dụng các công cụ tài chính tiền tệ, thuế suất, ngân sách và các công cụ hỗ trợ khác, không cần dùng, không cần lấy doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo mà các chính sách xã hội vẫn được thực hiện tốt, định hướng phát triển kinh tế, xã hội vẫn được đảm bảo. Trong khi đó ở Việt Nam, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các loại doanh nghiệp nhà nước, được nhà nước sử dụng và được xem là đóng vai trò chủ đạo, nhưng việc điều tiết vĩ mô và định hướng sự phát triển kinh tế xã hội trong nhiều lĩnh vực, ở các thời kỳ khác nhau không thể hiện được sự vượt trội so với các nền kinh tế khác. Thậm chí trong thời gian vừa qua, một số trường hợp còn để lại những hệ lụy khó lường như: trường hợp Vinashin và Vinalines, Tập đoàn than - khoáng sản, Tổng công ty Xăng dầu,… là những minh chứng cụ thể. Tình trạng kinh tế hiện nay của nước ta có nguyên nhân ở chỗ là đã quá nhiều năm chúng ta để cho kinh tế nhà nước trong đó chủ yếu là các loại hình doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo, và sử dụng chúng như là những công cụ kinh tế chủ yếu nhất để điều tiết sự phát triển kinh tế xã hội, làm cho các quan hệ thị trường bị méo mó, tạo điều kiện và cơ hội cho lợi ích nhóm lũng đoạn nền kinh tế, cho các ý muốn chủ quan và những quyết định điều hành không đúng theo xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội, mà lẽ ra không thể có trong các nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó. Tình trạng đó khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta càng méo mó, lồi lõm, làm cho việc thực hiện công bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế, các khu vực kinh tế, các loại hình doanh nghiệp nói chung càng trở nên khó khăn và bất khả thi hơn. Tình trạng “nước chảy chỗ trũng”, như dân gian vẫn thường gọi, khó có thể khắc phục được khi mà kinh tế nhà nước vẫn được xác định là đóng vai trò chủ đạo và các loại hình doanh nghiệp nhà nước vẫn được ưu đãi ở khía cạnh này hay khía cạnh khác.
Để điều hành nền kinh tế, nhà nước sử dụng và cần thiết phải sử dụng nhiều công cụ khác nhau. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật được xem là công cụ chủ yếu và quan trọng hàng đầu trong quản lý kinh tế xã hội. Các công cụ chính sách như tài chính tiền tệ, thuế suất, kế hoạch, tỉ giá,… là những công cụ không thể thiếu bên cạnh công cụ pháp luật. Các công cụ vật chất như ngân sách, hệ thống hạ tầng, dự trữ quốc gia,… cũng là những công cụ không thể thiếu để điều tiết nền kinh tế, chúng phải trở thành những “hàng hóa công”, tạo ra những điều kiện và môi trường ổn định, tin cậy để các chủ thể kinh tế có thể phát huy tối đa năng lực, hướng họ vào việc đóng góp có hiệu quả cho mục tiêu phát triển đất nước. Điều tiết nền kinh tế thị trường của nhà nước là phải làm cho nền kinh tế thị trường bớt méo mó, lồi lõm, tránh can thiệp trực tiếp vào thị trường. Nhưng đồng thời, bằng các công cụ của mình hạn chế được những mặt trái của nền kinh tế thị trường để cho cả nền kinh tế lẫn đời sống xã hội có thể phát triển bền vững lâu dài. Nếu vẫn tiếp tục xem kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, các loại hình doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất quan trọng để điều tiết nền kinh tế, thì tất yếu việc ưu đãi cho các loại hình doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục đầu tư, tái cơ cấu, thậm chí xây dựng lại, xây dựng thêm các doanh nghiệp nhà nước sẽ vẫn tất yếu được tiếp tục. Công bằng xã hội đối với các thành phần, các khu vực kinh tế, các loại hình doanh nghiệp là điều không khả thi và tất yếu công bằng xã hội trong lĩnh vực này vẫn tiếp tục bị méo mó[4], sự phát triển của kinh tế, con người và xã hội sẽ bị cản trở.
Thực hiện công bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay, rõ ràng là không phải ở chỗ tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà là ở việc đổi mới, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước phù hợp với các nguyên tắc, các quy luật của thị trường. Có lẽ đó là cái quan trọng nhất để định hướng phát triển các thành phần và các khu vực kinh tế, các loại hình doanh nghiệp khác nhau; định hướng và thúc đẩy các chủ thể kinh tế hoạt động hướng theo một mục tiêu thống nhất, nhất quán, lâu dài trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một mặt, nhà nước là người quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhưng mặt khác, nhà nước lại là người sở hữu các loại hình doanh nghiệp nhà nước, trong điều kiện ấy, nhà nước khó có thể đối xử bình đẳng, công bằng với tất cả các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Trong một vườn trẻ, người bảo mẫu không thể không “ưu đãi” cho con của họ trong quan hệ với những đứa trẻ khác. Chính vì vậy, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước[5], thay đổi chức năng của nhà nước trong quan hệ với các loại hình doanh nghiệp nhà nước là một trong những điều kiện tối quan trọng, cần thiết trong điều kiện hiện nay của nước ta, để thực hiện công bằng xã hội, và thậm chí để dân chủ hóa triệt để hơn nữa lĩnh vực hoạt động kinh tế, để nước ta có thể phát triển kinh tế, con người và xã hội với tốc độ nhanh và bền vững.
Các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế bao gồm các loại hình chủ thể kinh tế căn bản nhất của xã hội. Công bằng xã hội sẽ không đầy đủ nếu không có sự công bằng giữa các chủ thể kinh tế, giữa các hình thức sở hữu. Sự phát triển của tất cả các chủ thể tạo nên sự phát triển của các hình thức sở hữu. Sự phát triển đồng bộ của các hình thức sở hữu là nền tảng cho sự phát triển xã hội, cộng đồng, con người.
Thực hiện công bằng xã hội đối với các hình thức sở hữu là một điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của đời sống kinh tế, xã hội; và sự phát triển của chúng lại là tiền đề và điều kiện cho sự phát triển của mỗi người, mỗi cộng đồng và toàn xã hội. Không thể có sự phát triển con người thực sự nếu không thực hiện được sự công bằng xã hội với những nội dung cụ thể của nó. Thực hiện công bằng xã hội đối với các hình thức sở hữu không phải chỉ vì mục tiêu phát triển các hình thức sở hữu hay vì mục tiêu phát triển kinh tế thuần túy mà điều cốt yếu và căn bản nhất là vì sự phát triển con người. Chỉ có như vậy con người mới thực sự là mục tiêu và động lực của sự phát triển.
Tài liệu tham khảo
1. Quang Cận (2006), “Tiếp tục đổi mới tư duy về sở hữu xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, Số 16.
2. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), “Đổi mới quan niệm về chế độ sở hữu và ý nghĩa chiến lược của sự đổi mới đó đối với sự phát triển của Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, Số 12.
3. Nguyễn Văn Đặng (2005), “Mấy vấn đề về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản, Số 24.
4. Phạm Văn Đức (2005), “Đối mới về chế độ sở hữu ở Việt Nam: Một số cơ sở lý luận”, Tạp chí Triết học, Số 2.
5. Lương Đình Hải (2005), “Xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, Số 3,
6. Lương Việt Hải (chủ biên) (2008), Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Lương Đình Hải (2012), “Một vài suy nghĩ về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay”, http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?topic=168&subtopic=306&leader_topic=867&id=BT851235087 (ngày 7/5/2012).
8. Đàm Kiến Lập (2009), “Cấu thành quan hệ sở hữu, các tính chất và xu hướng vận động của nó”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Số 12.
9. Kỷ yếu hội nghị của Hội đồng lý luận Trung ương và Đại học Kinh tế quốc dân (2009), “Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: cơ sở lý luận và thực tiễn”.
10. Trần Quốc Toản (2013), Đối mới quan hệ sở hữu đất đai: Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
* Chủ tịch, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
** PGS.TSKH.; Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
[1] "Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài", Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr. 83.
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, Tr.35 - 36.
[4] Trên một phương diện nào đó trong quan hệ giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài thì việc nhà nước ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước là xác đáng, nhưng đây là vấn đề khác, trong phạm vi bài này chưa thể đề cập được.
[5] Một trong những lý do cổ phần hóa diễn ra chậm chạp trong hơn một thập kỷ qua ở nước ta có lẽ cũng do cả quan điểm kinh tế nhà nước chủ đạo nói trên. Tất nhiên việc cổ phần hóa phải được tiến hành một cách khoa học, thích hợp với điều kiện của Việt Nam, việc tránh bị lũng đoạn bởi các nhóm lợi ích, minh bạch, rõ ràng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc và sự phát triển,… chưa nói đến trong khuôn khổ bài viết này.