PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY MỘT SỐ KHÍA CẠNH CẦN LƯU Ý
NGUYỄN VĂN SƠN*
1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng (công bố năm 1991, sửa đổi năm 2011) khẳng định, một trong những phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xây dựng về cơ bản nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Đồng thời, phải chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản, đặc biệt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ chín, Khóa XI của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tiếp tục phát triển và cụ thể hóa tư tưởng của Cương lĩnh về phát triển con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khi đề cập đến nhiệm vụ phát triển kinh tế và nhận thấy sự gắn bó hữu cơ của văn hóa và phát triển con người, coi con người là nền tảng cho sự phát triển bền vững của xã hội đã khẳng định: “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”[1]. Tăng trưởng kinh tế phải đảm bảo cả chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần giải phóng các nguồn lực, tiềm năng kinh tế của đất nước, xây dựng xã hội phồn vinh và hạnh phúc. Đây cũng chính là cơ sở, là tiền đề vật chất để thực hiện các mục tiêu xã hội. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới coi việc tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu trong mọi chiến lược phát triển. Phát triển kinh tế bản thân nó không mâu thuẫn với tiến bộ xã hội, nhưng trong quá trình phát triển, việc quá coi trọng mục tiêu kinh tế, chạy theo các giá trị vật chất và các chỉ tiêu kinh tế, bỏ quên con người và văn hóa sẽ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng, không bền vững trong sự vận động của xã hội. Tăng trưởng kinh tế với mục tiêu thuần túy kinh tế sẽ là nguồn gốc cho những mâu thuẫn cũng như các xung đột xã hội.
Tăng trưởng, phát triển kinh tế thuần túy, bên cạnh sự xung đột về lợi ích, còn phá vỡ các mối quan hệ với văn hóa, đạo đức, công bằng xã hội. Khi các mối quan hệ này bị phá vỡ, mất cân bằng thì nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống thực dụng, sùng bái vật chất, ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội có cơ sở để tồn tại. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm môi trường sống trong lĩnh vực tinh thần cũng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng và đời sống tinh thần của con người và xã hội. Các vấn đề liên quan đến luân lý, đạo đức, giá trị tinh thần, tính nhân văn, sự vô cảm và bàng quan trước cái xấu, cái ác của xã hội xuất hiện ngày càng nhiều. Tất cả những vấn đề này đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn toàn diện, xem xét đúng vai trò của đời sống tinh thần, dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội để có các giải pháp góp phần xây dựng một xã hội phát triển về kinh tế, lành mạnh về đời sống tinh thần, quan hệ giữa người với người ngày càng tốt đẹp và nhân văn. Vì thế, “phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”[2] là chủ trương đúng đắn của Đảng ta. Trong quá trình thực hiện, việc quán triệt không đầy đủ và sâu sắc quan điểm phát triển cũng như về mặt nhận thức, không đánh giá đúng vị trí và vai trò của văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội sẽ làm suy giảm sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, kìm hãm sự phát triển. Thực tế đã chứng minh, nhiều nước trên thế giới có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng đời sống văn hóa tinh thần và phát huy năng lực sáng tạo của con người lại không được thực hiện, từ đó, con người không những không được giải phóng mà còn có nguy cơ bị tha hóa.
Do vậy, để phát triển con người, chúng ta không chỉ quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển, mà còn phải thực hiện quan điểm đó trong từng bước, từng chính sách và trong nhận thức của toàn xã hội. Phát triển kinh tế hài hòa với thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội không phải là coi nhẹ yếu tố kinh tế. Kinh tế đóng vai trò trung tâm và chi phối các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Của cải vật chất của xã hội phong phú và đa dạng là cơ sở để thực hiện công bằng xã hội. Chỉ có nỗ lực phát triển sức sản xuất, sáng tạo ra của cải vật chất mới có khả năng đáp ứng và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đời sống xã hội được xem xét chủ yếu trên hai phương diện vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, là điều kiện quan trọng hàng đầu cho sự phát triển văn hóa, con người; phát triển văn hóa, con người là động lực, là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế phải hướng đến mục tiêu phát triển văn hóa, phát triển con người. Sức sản xuất càng phát triển thì quan hệ giữa văn hóa và kinh tế càng mật thiết. Mọi hoạt động kinh tế, từ thiết kế đến sử dụng sản phẩm, đều thấm sâu yếu tố văn hóa, con người, vì toàn bộ quá trình kinh tế đều là hoạt động của con người; và con người, thông qua các hoạt động của mình, thiết lập các quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người. Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển của khoa học, công nghệ, đang tạo ra những điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển. Những thay đổi trong phát triển kinh tế tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa và con người. Song, chỉ khi những chính sách và chiến lược phát triển kinh tế mang hàm lượng nhân văn, văn hóa cao, thì sự phát triển kinh tế mới thật sự có giá trị.
Tăng trưởng kinh tế không chỉ đặt trong quan hệ với văn hóa, mà còn cần xem xét trong quan hệ với tiến bộ và công bằng xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội có quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế trên hai phương diện: vừa là động lực, vừa là thành quả của tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở, điều kiện vật chất để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đến lượt mình, tiến bộ và công bằng xã hội là động lực, mục tiêu của tăng trưởng kinh tế. Không có sự đảm bảo của tiến bộ và công bằng xã hội sẽ là rào cản cho tăng trưởng của giai đoạn tiếp theo. Có thể nói, để thực hiện mục tiêu phát triển con người, cần phát triển kinh tế gắn với mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội. Thực hiện điều này, cần nhận thức đầy đủ và quán triệt sâu sắc một số vấn đề, như:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ không phải là nguyên nhân kìm hãm kinh tế. Không thể có tiến bộ và công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong xã hội mà con người ốm yếu về thể chất, thấp kém về trí tuệ và đời sống văn hóa. Ngay cả trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội vẫn luôn là một yêu cầu khách quan.
Thứ hai, để tiến bộ và công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế, cần giáo dục ý thức gắn quyền lợi và nghĩa vụ trong đời sống xã hội. C.Mác đã chỉ rõ: công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Công bằng xã hội cần được hiểu như vậy để tránh tình trạng bình quân chủ nghĩa, đưa con người tới sự “bất bình đẳng” trong việc hưởng thụ nguồn lợi của xã hội. Cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề công bằng xã hội như vậy mới góp phần khuyến khích sự đóng góp và phát huy các nguồn lực của xã hội, tạo động lực bên trong cho sự phát triển của cả kinh tế lẫn con người và xã hội.
Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội trên phạm vi cả nước, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và trong từng bước, từng chính sách, phải nhằm bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển xã hội, mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người. Các chính sách phát triển phải hướng vào giải phóng tiềm năng con người, tạo điều kiện cho con người phát huy thế mạnh để góp phần giải phóng con người và giải phóng xã hội, cùng với đó là tạo điều kiện cho con người tự giải phóng mình. Sự nghiệp xây dựng xã hội mới của Đảng ta là để phát triển con người toàn diện. Hơn nữa, trong các nguồn lực để xây dựng xã hội mới, con người là vốn quý nhất, là nguồn lực không thể thay thế, là nguồn lực quyết định. Công bằng xã hội là vấn đề quan hệ lợi ích, lấy tăng trưởng kinh tế làm tiền đề, nhưng không phải là hệ quả trực tiếp của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tác động đến việc phân phối lợi ích thông qua những khâu trung gian; trong đó, trước hết phải kể đến cơ chế kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thì tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là những tiêu chí cơ bản cần phải đạt tới. Thực tế cho thấy, tăng trưởng kinh tế có thể tạo cơ sở để thực hiện công bằng xã hội và ngược lại, nó cũng có thể làm cho công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng hơn. Vì vậy, nó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới các vấn đề khác của xã hội. Cũng như vậy, việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội không chỉ thể hiện tính nhân văn, mà còn thúc đẩy hay kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Hiệu quả của việc thực hiện mối quan hệ này sẽ tác động trực tiếp đến phát triển và giải phóng con người.
2. Phát triển nhằm thỏa mãn các yêu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại đến khả năng phát triển của các thế hệ tương lai trở thành nội dung quan trọng được nhiều quốc gia, khu vực quan tâm, chú trọng khi xây dựng mô hình kinh tế - xã hội của mình. Việc phát triển thiếu tôn trọng, không bảo toàn môi trường, môi sinh dẫn đến hệ sinh thái mất cân bằng, suy thoái, khiến sự tồn tại của con người bị đe dọa, tình trạng đói nghèo, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo gia tăng. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải chú ý tổng hợp các phương diện môi trường, môi sinh, kinh tế, xã hội và chính trị, bởi không thể có sự bền vững môi trường nếu không có bền vững chính trị - xã hội. Cũng không thể có tiến bộ và công bằng xã hội nếu không đảm bảo sự bền vững và cân bằng sinh thái cần thiết để con người tồn tại và phát triển. Do vậy, phát triển vừa phải đảm bảo thỏa mãn các yêu cầu căn bản của con người về các lĩnh vực lương thực, nước sạch, nhà ở, sức khỏe, giáo dục, an sinh, phúc lợi và các yêu cầu tinh thần khác của hiện tại, vừa phải tạo các tiền đề cho tương lai. Điều này có nghĩa rằng, cần phải phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa giữa hiện tại và tương lai trong một thể thống nhất. Phát triển con người không thể thiếu quan điểm bảo đảm tiền đề và điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các thế hệ tương lai.
Ý thức rõ vấn đề này, trong định hướng chiến lược phát triển, Đảng ta đã xác định mục tiêu tổng quát là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người, tự nhiên, xã hội; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa trên cả ba phương diện phát triển kinh tế, phát triển xã hội, con người và bảo vệ môi trường.
Phát triển bền vững mà chúng ta đang thực hiện gặp nhiều khó khăn và thử thách, trong điều kiện khủng hoảng kinh tế, nhu cầu nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội đã qua và trước mắt có nguy cơ đưa chúng ta trở về mục tiêu kinh tế thuần túy nhằm đạt cho được các tiêu chí về mặt kinh tế. Do đó, đòi hỏi chúng ta phải có sự xem xét, điều chỉnh chiến lược phát triển giữa hiện tại và tương lai, giữa trước mắt và lâu dài. Sự phát triển của kinh tế có thể đạt đến mức độ cao của hiện tại, nhưng lại đặt ra các vấn đề không chỉ cho tương lai, mà cho cả chính các vấn đề hiện tại. Sự phát triển kinh tế dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên góp phần khắc phục tạm thời sự thiếu hụt các nguồn lực khác. Tuy nhiên, đó chỉ là về phương diện tự nhiên, phát triển bền vững cần tính đến yếu tố quan trọng không kém phần tự nhiên đó là các vấn đề văn hóa, đạo đức, lịch sử, giá trị dân tộc,... mà ngày nay, chúng ta gọi là môi trường xã hội. Do vậy, phải lưu ý rằng việc phát triển không chỉ cho hiện tại, mà còn đặt nền móng cho tương lai về cả mặt vật chất lẫn mặt tinh thần của xã hội.
Mục tiêu phát triển kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được tình trạng suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại những “gánh nợ” về kinh tế và các hậu quả xã hội cho thế hệ mai sau. Mục tiêu phát triển bền vững về mặt xã hội là đạt kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm cho con người phát triển toàn diện không chỉ ở hiện tại, mà còn ở tương lai có khả năng thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh, của thời đại. Mục tiêu của việc phát triển kinh tế bền vững về mặt tự nhiên là khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên, góp phần ngăn chặn, kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ tốt môi trường sống, cải thiện chất lượng môi trường nhằm góp phần bảo đảm phát triển con người khỏe mạnh về mặt thể chất. Trong quá trình phát triển, bên cạnh các yếu tố kinh tế, như thu nhập, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo phát triển về thể trạng con người cần phải xác định mục tiêu và bảo đảm sự công bằng, bình đẳng trong đời sống tinh thần của xã hội. Các vấn đề giáo dục, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thế hệ trong xã hội, duy trì và phát huy tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc với tư cách là nền tảng, động lực của xã hội, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của xã hội phải được coi trọng và là chiến lược song hành với chiến lược phát triển kinh tế.
Để đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội không phương hại đến thế hệ mai sau, tạo ra môi trường xã hội lành mạnh để con người phát triển trên nền tảng các giá trị của dân tộc, cần thiết phải quán triệt sâu sắc và coi đó là nguyên tắc của sự phát triển trong giai đoạn hiện nay. Đó là:
Thứ nhất, con người là trung tâm của sự phát triển và phát triển bền vững, do vậy cần coi trọng việc đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh là nguyên tắc cần được quán triệt nhất quán trong mọi giai đoạn phát triển. Một xã hội phát triển bền vững có nghĩa rằng, xã hội đó phải là xã hội công bằng với một hệ thống an sinh xã hội góp phần giải quyết tốt các vấn đề đói nghèo và những tai biến khác của xã hội, đặc biệt là nhóm người yếu thế. Xã hội không thể có sự phát triển bền vững nếu một bộ phận nào đó đứng ngoài sự phát triển hoặc tính mạng, sức khỏe của họ bị bệnh tật, đói nghèo, thiên tai đe dọa.
Thứ hai, phát triển kinh tế phải được coi là cơ sở, là nền tảng để đảm bảo phát triển bền vững; nhưng phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa với phát triển xã hội; khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên; từng bước thực hiện nguyên tắc “kinh tế, xã hội và môi trường cùng có lợi”. Bên cạnh đó, cần phân biệt rõ phát triển với tăng trưởng, tăng trưởng chú trọng vào số lượng, còn phát triển quan tâm tới tiềm năng, phẩm chất phục vụ con người một cách toàn diện, ngày càng đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần.
Thứ ba, coi trọng công tác bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Tích cực, chủ động phòng ngừa và ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường do hoạt động của con người gây ra. Trong quá trình phát triển, không chỉ coi trọng khâu bảo vệ, mà còn chú trọng khâu tái sinh môi trường, hệ sinh thái để đảm bảo điều kiện sống và phát triển của con người. Phát triển con người là nội dung của phát triển bền vững và phát triển bền vững là để đảm bảo phát triển con người được thực hiện tốt.
Thứ tư, một trong những nội dung quan trọng cần quán triệt sâu sắc nhằm góp phần phát triển bền vững - đó là phải dựa trên nền tảng nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn xã hội đối với sự phát triển bền vững. Việc xây dựng, phát triển kinh tế và đặt nền móng cho sự ổn định, bền vững của tương lai không phải là việc làm của cá nhân, của Đảng, Nhà nước hay của một nhóm người, mà là vấn đề của toàn xã hội. Do vậy, cần huy động tối đa sự tham gia của cá nhân cũng như tập thể trong việc lựa chọn các quyết định về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Bảo đảm cho người dân có khả năng tiếp cận thông tin và nâng cao vai trò của các tầng lớp nhân dân trong việc đóng góp vào các chương trình kinh tế - xã hội lâu dài của đất nước.
3. Lịch sử dân tộc ta với hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã rèn luyện, hun đúc nên những thế hệ người Việt Nam giàu lòng yêu nước, thương yêu đồng chí, đồng đội và con người, giàu lòng nhân nghĩa, kính thầy, ham học, dũng cảm, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn. Những đức tính này đã trở thành truyền thống mà hàng nghìn đời nay dân tộc ta đã nâng niu, gìn giữ, phát triển. Những giá trị tốt đẹp đó đóng vai trò góp phần củng cố, phát triển các mối quan hệ xã hội, tạo ra sức mạnh để con người vượt qua khó khăn trong quá trình xây dựng, bảo vệ đất nước và trở thành một phần nhân cách con người Việt Nam. Vì vậy, khi nói đến giá trị truyền thống là nói đến toàn bộ các giá trị văn hóa, lịch sử và phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam.
Mặt trái của sự phát triển kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đã làm đảo lộn nhiều giá trị vốn là chuẩn mực trong đời sống xã hội nước ta. Chính vì vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, việc hội nhập và tiếp thu văn hóa nhân loại thiếu sự chọn lọc dẫn tới mất phương hướng trong việc xác định các giá trị cũng như những nhận thức về giá trị đã có sự lệch lạc. Từ khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu đạt được, đã xuất hiện nhiều quan niệm cũng như lối sống trái với chuẩn mực và giá trị truyền thống của dân tộc. Một bộ phận trong các tầng lớp nhân dân khi mưu cầu lợi ích cá nhân đã chà đạp lên những khuôn mẫu, giá trị đạo đức đích thực, nảy sinh tâm lý sống thực dụng, quay lưng với các giá trị văn hóa, giá trị đạo đức truyền thống. Trong bối cảnh đó, việc bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống cần phải được nhìn nhận nghiêm túc và có sự quan tâm đặc biệt trong suốt quá trình phát triển kinh tế thị trường.
Thực tế đó đã đặt ra một yêu cầu, một thách thức lớn đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - đó là sự gắn kết phát triển kinh tế với việc bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đảng ta khẳng định: “Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”[3]. Hiện nay, có nhiều lý thuyết phát triển, trong đó ưu thế ngày càng thuộc về quan niệm coi mục tiêu phát triển là phải nâng cao chất lượng cuộc sống con người với bảo đảm sao cho hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa mức sống cao với lối sống và nếp sống đẹp; không chỉ cho một số ít người mà cho đại đa số, cho toàn xã hội; không chỉ cho hôm nay mà cho cả mai sau. Để đạt mục tiêu đó, nhất định phải có sự phát triển cao về kinh tế, về cơ sở vật chất. Song, chỉ như thế chưa đủ, và rất không đúng nếu hiểu xây dựng kinh tế chỉ là tăng trưởng đơn thuần, tăng trưởng với bất kỳ giá nào, thậm chí dù phải đánh đổi cả mặt xã hội, văn hóa và phẩm giá con người. Bởi vậy, cần nắm chắc và quán triệt quan điểm chỉ đạo cơ bản: Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa, các giá trị tinh thần của dân tộc không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế. Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có chủ yếu do tiềm năng sáng tạo của con người quyết định. Tiềm năng này nằm trong văn hóa, trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách, lối sống, ý chí, nghị lực của con người và của dân tộc.
Ngày nay, kinh tế thị trường cùng xu thế toàn cầu hóa ngày càng trở thành xu thế khách quan và chi phối mạnh mẽ mọi mặt của đời sống xã hội. Quá trình này tạo điều kiện, cơ hội cho các nền kinh tế và văn hóa xích lại gần nhau, bổ sung cho nhau, làm phong phú và hỗ trợ cho nhau. Nhưng xu thế này đang vận động trong trạng thái chịu sự chi phối mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản, là một quá trình đầy mâu thuẫn và phức tạp. Dưới góc độ văn hóa và truyền thống, toàn cầu hóa và phát triển kinh tế thị trường mở ra khả năng to lớn để giao lưu văn hóa, tạo động lực cho quá trình đổi mới và hiện đại hóa văn hóa dân tộc. Điều này làm cho “những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở ra một nền văn học toàn thế giới”[4]. Mặt khác, những biến đổi phức tạp trong văn hóa gắn với thị trường tư bản lại đặt ra thách thức to lớn cho mỗi quốc gia, dân tộc. Con người với tư cách chủ thể của phát triển, sử dụng, định hướng cho sự phát triển kinh tế cũng như các giá trị xã hội là yếu tố đóng vai trò quyết định. Do vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần quán triệt sâu sắc và phải được thực hiện trong từng bước, từng chính sách - đó là:
Thứ nhất, xác định hệ giá trị truyền thống tốt đẹp cần duy trì, phát triển; xây dựng hệ giá trị mới phù hợp với yêu cầu của sự phát triển xã hội. Việc xác định những giá trị truyền thống, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống để giáo dục cho các thế hệ sau là việc cần thiết. Bởi lẽ, chỉ có nhận thức được việc duy trì những truyền thống đạo đức, văn hóa, lịch sử tốt đẹp thì mọi người mới tự giác thực hiện, phát triển truyền thống. Lịch sử đã cho thấy, lúc nào và ai đó quên đi lịch sử của dân tộc thì người đó và khi đó đánh mất chính bản thân mình, mất đi động lực để phát triển.
Thứ hai, khi giáo dục truyền thống cần chú ý sử dụng truyền thống như là một phương pháp giáo dục. Điều này có nghĩa là, thông qua các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, kết hợp với các lực lượng của toàn xã hội nhằm tạo ra dư luận xã hội lành mạnh ủng hộ cá nhân, hành vi tốt và lên án mạnh mẽ những cá nhân, những hành vi phi đạo đức đi ngược lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chú trọng giáo dục đạo đức trong gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội. Đặc biệt, việc giáo dục đạo đức trong gia đình là hết sức cơ bản và quan trọng. Bởi lẽ, gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng trong việc giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách cho mỗi người. Đồng thời, chú trọng bồi dưỡng và giáo dục lý tưởng thông qua việc bồi dưỡng các giá trị lịch sử nhằm góp phần tạo ra các thế hệ người biết hướng về cội nguồn, bảo vệ những giá trị đạo đức truyền thống, đó chính là nội lực cho sự phát triển bền vững của xã hội hiện tại và cả trong tương lai. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
4. Phát triển con người toàn diện không thể không phát triển dân chủ. Dân chủ là một trong những nội dung quan trọng góp phần phát huy sức mạnh, trí tuệ của nhân dân trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Muốn thực hiện dân chủ, trước hết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật với tư cách là hành lang vận động của các chủ thể xã hội. Pháp luật còn là công cụ để bảo vệ công dân và xã hội, là phương tiện chuyển tải các thông tin, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông qua việc nhận thức pháp luật để góp phần củng cố nhân sinh quan, tình cảm, niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước.
Đối với nước ta, xây dựng hệ thống pháp luật cũng như nhận thức về vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội đã có thời gian dài bị xem nhẹ. Bên cạnh đó, khi xây dựng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi và cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật và quản lý bằng pháp luật. Từ đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ngày càng được quan tâm đã góp phần quản lý tốt nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống pháp luật trong những năm vừa qua chưa đáp ứng cả về số lượng và chất lượng. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội trên nhiều phương diện, đặc biệt là các văn bản pháp lý có liên quan đến việc phát triển quyền công dân, phát triển con người. Có thể nói, tính đồng bộ của pháp luật hiện nay còn hạn chế, mặc dù trong những năm qua, hệ thống pháp luật không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Sự gia tăng của các luật chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Nhiều lĩnh vực còn buông lỏng quản lý hoặc quản lý bằng các văn bản dưới luật đã cản trở quá trình dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật hiện nay còn có sự chồng chéo. Việc sửa đổi, bổ sung hoàn các luật là yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Việc sửa đổi, bổ sung phải đi kèm với việc xây dựng mới. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước hoàn thiện và sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu và rộng phát sinh những yêu cầu cũng như các tình huống chưa có tiền lệ, do vậy hoàn thiện hệ thống pháp luật là một yêu cầu khách quan. Thậm chí, pháp luật phải đi trước, dự báo về các vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội. Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật phải xuất phát từ đặc điểm kinh tế - xã hội và phù hợp với trình độ phát triển và bảo đảm tính ổn định.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một vấn đề mới mẻ, chúng ta có thể học hỏi và rút kinh nghiệm từ các nước đi trước, kể cả các nước có thể chế chính trị khác nhau. Trên quan điểm đổi mới và phát triển, việc học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm là cần thiết để phát triển và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là một động lực của tiến bộ và phát triển xã hội, con người, thể hiện ở chỗ, thực hiện được lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng. Không chỉ lợi ích kinh tế - vật chất mà cùng với nó là lợi ích văn hóa, tinh thần, là ngọn nguồn dẫn tới tính tích cực lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung, làm giảm thiểu và tiến tới xóa bỏ tình trạng tha hóa lao động, tha hóa đạo đức và lối sống, tha hóa con người. Nhờ dân chủ trong các quan hệ lợi ích mà xã hội có thể ra khỏi tình trạng trì trệ trong sản xuất - kinh tế, thúc đẩy năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động vì lợi ích cá nhân và vì lợi ích cộng đồng.
Kinh tế thị trường cùng với kinh tế tri thức là tác nhân kinh tế quan trọng nhất để phát triển dân chủ, dân chủ là xung lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế về cả tốc độ, quy mô và chất lượng trong nền kinh tế thị trường. Thể chế, các chính sách dân chủ thúc đẩy thái độ và hành vi của từng cá nhân, của cộng đồng trong đổi mới, phát triển và hiện đại hóa đất nước. Hai vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhất được đặt ra đối với đời sống xã hội là thoát ra khỏi đói nghèo, lạc hậu và tôn trọng giá trị, nhân cách con người. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và những cơ chế mới để phát huy dân chủ trong đời sống xã hội phải từng bước đáp ứng tốt nhất những điều kiện ấy - tất cả vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của con người.
Xuất phát từ tinh thần đó, pháp luật xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang được hiện thực hóa trong thực tiễn. Trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần chú ý giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ chú trọng bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý, mà còn đặc biệt chú trọng đến sự bình đẳng xã hội, công bằng xã hội. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền “bao gồm một tập hợp các quy định mà nếu thiếu chúng thì không thể có sự cùng tồn tại trong hòa bình và tự do”. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ bảo đảm cho cá nhân, tổ chức cùng tồn tại trong sự hòa hợp và tự do, mà cả trong sự bình đẳng, công bằng xã hội, chống lại mọi sự phân biệt đối xử và sự thống trị của chủ nghĩa tự do cực đoan.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thể hiện ý chí của nhân dân - người đại diện là tổ chức chính trị được nhân dân thừa nhận. Sự thừa nhận đó trở thành nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo phương châm tăng tính cụ thể và khả thi của văn bản pháp luật. Vấn đề này có liên quan chặt chẽ với việc nghiên cứu các giá trị, đặc biệt là các giá trị truyền thống. Thông qua quá trình đó, chúng ta có thể lựa chọn các chuẩn mực, các giá trị phù hợp để luật hóa, biến thành những quy phạm pháp luật chung của xã hội mà mỗi công dân đều có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ. Có thể nói, đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cấp bách trong quá trình xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh ở nước ta hiện nay. Và như vậy, để xã hội ổn định và phát triển, phải có môi trường thuận lợi cho việc phát triển nói chung và dân chủ nói riêng, cần phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động của con người và của toàn xã hội. Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, đổi mới đất nước - tiền đề cho sự nghiệp phát triển con người.
5. Ngày nay, loài người tiến bộ đang khao khát hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đáng kể chất lượng sống cho con người trong sự kết hợp hài hòa giữa điều kiện vật chất và điều kiện tinh thần, giữa mức sống cao và nếp sống đẹp, vừa an toàn, vừa bền vững cho tất cả mọi người, cho thế hệ ngày nay và cho các thế hệ mai sau. Trí tuệ đang trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh của mỗi quốc gia. Giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội, mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Các nước chậm phát triển muốn thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu phải hết sức quan tâm đến giáo dục, đào tạo. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển. Và, chỉ có một chiến lược phát triển con người đúng đắn mới giúp các nước chậm phát triển thoát khỏi sự lạc hậu và tụt hậu về mọi mặt.
Xuất phát từ nhận thức về vị trí và vai trò quan trọng của giáo dục - đào tạo, hầu hết các nước nói chung và nước ta nói riêng cần xác định mục tiêu, phương hướng cho nền giáo dục của mình dựa trên đặc thù về kinh tế, văn hóa, lịch sử và yêu cầu của sự phát triển. Việc xác định mục tiêu, phương hướng và những quan điểm chỉ đạo đối với giáo dục - đào tạo có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển bền vững của con người và xã hội. Hiện nay, trước yêu cầu phát triển kinh tế, chúng ta coi trọng và chú ý việc đào tạo chuyên môn với những khối lượng lớn kiến thức và hướng vào việc bằng cấp hơn những vấn đề khác của con người. Trên thực tế, những bằng cấp cùng những trình độ chuyên môn giỏi không phải và không thể thay thế con người. Nếu khi nào giáo dục xa rời trọng tâm là con người thì khi ấy, giáo dục sẽ không còn là giáo dục nữa. Và khi tinh thần trở thành “nô lệ” cho vật chất thì con người không còn là chính mình và trở nên bị “tha hóa”. Cuộc sống của con người sẽ trở nên cao đẹp, nhân văn khi có bệ đỡ là những giá trị tinh thần. Giá trị của con người cũng phải được xác định trên cơ sở đó. Và đó cũng chính là một trong những tiền đề cho một xã hội trở thành xã hội văn minh.
Để trở thành một xã hội văn minh, cần phải có sức mạnh kinh tế và năng lực sáng tạo. Song cả hai yếu tố này nhiều khi chỉ mang lại sự tăng trưởng kinh tế mà không giải quyết được những vấn đề của phát triển con người và xã hội. Yếu tố cơ bản và cần thiết cho phát triển đó là văn hóa. Văn hóa phải được coi là chìa khóa của sự phát triển, là mục tiêu, động lực và hệ điều tiết của phát triển. Và do vậy, cần thiết phải vượt lên trên cách tiếp cận kinh tế học thuần túy và tìm ra các phương thức để kinh tế có khả năng bắt rễ trong văn hóa. Do đó, cần phải có sự đổi mới tư duy giáo dục theo hướng gắn đào tạo chuyên môn với giáo dục nhân cách, giá trị văn hóa dân tộc. Mục tiêu của sự nghiệp giáo dục - đào tạo là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nền giáo dục xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân, dân tộc, khoa học và hiện đại. Chú trọng giáo dục tư tưởng, nhân cách, lối sống nhằm nâng cao khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành trên cơ sở giáo dục nhân cách, thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí và phát triển con người Việt Nam có chuyên môn giỏi và giàu tính nhân văn.
Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục - đào tạo là nhằm xây dựng, phát triển những con người và các thế hệ người thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có thể lực, trí lực và tình cảm lành mạnh, có kỹ năng lao động giỏi, có ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, trong quá trình đổi mới giáo dục, đào tạo cần quán triệt sâu sắc một số quan điểm sau đây:
Thứ nhất, giáo dục đào tạo phải thực hiện tốt mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục không thể dừng lại ở xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục trong toàn dân, mà phải mang lại cho mọi người, cho xã hội, đặc biệt là những vùng khó khăn, vùng cao, miền núi, hải đảo khả năng tiếp thu nền giáo dục mới, những tri thức về đời sống, văn hóa, về xã hội, thiên nhiên, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật.
Thứ hai, giáo dục đạo đức, lý tưởng, giá trị truyền thống cho lớp trẻ hiện nay phải được coi trọng và đặt lên hàng đầu. Trong quá trình đào tạo, nếu quá coi trọng về trình độ chuyên môn sẽ dễ dẫn đến nguy cơ xa rời giá trị văn hóa. Trong quá khứ, đã có nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam được giáo dục thấm nhuần lý tưởng cách mạng, sống cống hiến cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Lý tưởng đó đã cùng với toàn Đảng, toàn dân đưa cách mạng nước ta, dân tộc ta, nhân dân ta giành nhiều thắng lợi to lớn. Điều này đã chứng tỏ sức mạnh và giá trị tinh thần vô cùng to lớn của nó là có thể làm thay đổi đời sống kinh tế - xã hội. Ngày nay, cần khơi dậy ý chí, nghị lực của con người Việt Nam quyết tâm không cam chịu nghèo hèn, vượt lên làm chủ hoàn cảnh và cải tạo hoàn cảnh.
Thứ ba, xây dựng một nền giáo dục hiện đại phù hợp với Việt Nam. Đó là nền giáo dục phát huy được những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, một nền giáo dục hiện đại, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo kịp trình độ phát triển của khoa học và công nghệ tiên tiến trên thế giới. Học tập những kinh nghiệm hay của các nước đi trước, đặc biệt là các nước có hoàn cảnh tương đồng để phát triển. Bên cạnh đó, cần áp dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện và truyền thống Việt Nam trong việc xây dựng chương trình cũng như quản lý giáo dục. Có như vậy, chúng ta mới tạo ra đội ngũ trí thức vừa có trình độ tay nghề cao, vừa có lý tưởng, đạo đức trong sáng, có niềm tự hào và tự tôn dân tộc. Đây là động lực quan trọng, nội lực bên trong quyết định sự phát triển của đất nước, con người và xã hội Việt Nam.
Phát triển con người trong tư tưởng của C.Mác không phải thuần túy đảm bảo các yếu tố tự nhiên, mà còn phát triển toàn bộ các giá trị tinh thần khác, hay nói cách khác, phát triển các lực lượng mang bản chất người. Phát triển con người là sự phát triển những năng lực, phẩm chất người, năng lực cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và năng lực làm chủ bản thân mình. Thông qua đó, con người thực hiện giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng và phát triển mình để trở thành con người tự do. Quán triệt những nội dung nói trên là góp phần thực hiện tư tưởng đó.
Tài liệu tham khảo
-
Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
-
Lương Việt Hải (2009), “Những tiêu chí cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, Số 10 và 11.
-
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2006), Phát triển con người Việt Nam 1999 - 2004 những thay đổi và xu thế chủ yếu, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
-
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc - UNDP (2012), “Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người”, Báo cáo Quốc gia về Phát triển con người năm 2011.
-
Trương Minh Tuấn (2012), “Dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Triết học, Số 1.
-
Nguyễn Tài Thư (2011), “Quan hệ con người - tự nhiên trong truyền thống phương Đông và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng xã hội hiện đại”, Tạp chí Triết học, Số 9.