NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
THEO QUAN ĐIỂM MÁCXÍT VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LÊ THỊ CHIÊN *
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội được coi là một trong những nội dung cơ bản của triết học Mác - Lênin nói chung và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng. Trong học thuyết này, các nhà triết học mácxít đã khẳng định tính chất quyết định của hoạt động sản xuất vật chất đối với toàn bộ đời sống tinh thần, tư tưởng của con người. Khi bàn đến những yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, các nhà triết học mácxít đặc biệt đề cao vai trò của người lao động vì đó chính là nhân tố quyết định mọi quá trình sản xuất xã hội. Quan điểm đó có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay.
1. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất
Theo C.Mác, sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên và cơ bản của con người. Đó là quá trình con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào tự nhiên, tạo ra những của cải vật chất nhằm phục vụ nhu cầu của bản thân mình và phát triển xã hội. Để tiến hành sản xuất, con người phải sử dụng những tư liệu sản xuất như đối tượng lao động, công cụ lao động và những điều kiện vật chất khác. Những vật đó được C.Mác gọi là “khí quan” giúp con người có khả năng nối dài đôi bàn tay và làm cho quá trình tác động vào tự nhiên trở nên có hiệu quả hơn.
Ngoài việc nhấn mạnh đến vai trò của tư liệu sản xuất - yếu tố cần thiết của mỗi quá trình sản xuất, C.Mác đã khẳng định, để quá trình sản xuất được tiến hành không thể thiếu vai trò của người lao động. Theo C.Mác, yếu tố vật thể sẽ không có bất cứ tác dụng nào nếu không có một lực lượng xã hội để tiến hành sản xuất vật chất. Tư liệu sản xuất sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có sự tác động của con người. Điều này đã được C.Mác khẳng định như sau: “Một cái máy không dùng vào quá trình lao động chỉ là một cái máy vô ích. Ngoài ra, nó còn bị hư hỏng do sức mạnh hủy hoại của sự trao đổi chất của tự nhiên. Sắt thì han rỉ, gỗ thì bị mục. Sợi không dùng để dệt hoặc đan thì chỉ là một số bông bị hỏng”[1].
Với tính cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất, người lao động là những người có khả năng lao động, nghĩa là phải có cả sức mạnh cơ bắp và sức mạnh trí tuệ mà C.Mác đã gọi cụ thể là có “đầu óc” và “đôi bàn tay”. Điều đó tạo nên sức mạnh tổng hợp cho con người. Đó là sức mạnh thể chất và trí tuệ - những yếu tố tạo nên khả năng lao động của con người: “Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ: tay, chân, đầu và hai bàn tay”[2]. Ngoài ra, người lao động cũng cần phải có kinh nghiệm, những kĩ năng, kĩ xảo trong lao động. C.Mác viết: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”[3]. C.Mác khẳng định hoạt động sản xuất chính là một dạng hoạt động chỉ có ở con người, nó khác hẳn về chất so với hoạt động của con vật: “Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt, và bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong làm cho một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu mình rồi. Cuối quá trình lao động, người lao động thu được kết quả mà họ đã hình dung ngay từ đầu quá trình ấy, tức là đã có trong ý niệm rồi”[4].
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, trước hết con người đem nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất sức mạnh cơ bắp của mình. Tuy nhiên, nếu chỉ tiến hành sản xuất bằng các khí quan vật chất thuần túy của cơ thể thì con người sẽ không bao giờ tiến xa hơn động vật. Vì con người là một sinh vật xã hội nên ngoài sức mạnh cơ bắp, khi tham gia vào quá trình sản xuất, con người còn có cả trí tuệ và toàn bộ hoạt động tâm sinh lý và ý thức của họ. Cái phần vật chất của con người trong lực lượng sản xuất được điều khiển bằng trí tuệ nên nó trở nên khéo léo, linh hoạt, uyển chuyển, năng động khiến con người trở thành yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất.
Theo C.Mác, con người là một “động vật biết chế tạo công cụ”. Do đó, ngoài việc sử dụng những công cụ lao động có sẵn, con người đã làm cho một vật “do tự nhiên cung cấp” trở thành một khí quan hoạt động của con người. Nhờ đó, con người đã tăng thêm sức mạnh của các khí quan vốn có của mình lên gấp bội. Không chỉ tạo ra các công cụ lao động, con người còn luôn biết cải tạo đối tượng lao động. Trong buổi bình minh của lịch sử, lực lượng sản xuất còn thấp kém, con người dựa chủ yếu vào những đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên. Khi nền sản xuất ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng tăng lên, công cụ lao động ngày càng được cải tiến, đối tượng lao động chiếm tỉ lệ ngày càng cao và đang có xu thế hơn hẳn những đối tượng sẵn có trong tự nhiên. Điều đó chứng tỏ con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của quá trình sản xuất. Điều này đã được C.Mác khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng”[5]. Kế thừa tư tưởng của C.Mác về vai trò quyết định của người lao động trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, V.I. Lênin còn khẳng định sự vượt trội của con người so với các yếu tố khác của quá trình sản xuất: “Trong khi vật chất có thể bị phá hủy hoàn toàn thì các kĩ năng của con người như công nghệ, bí quyết tổ chức và nghị lực làm việc sẽ còn mãi”[6].
Khẳng định trên của các nhà triết học mácxít là đúng đắn vì suy cho cùng, hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu (trừ những đối tượng sẵn có trong tự nhiên) là sản phẩm lao động của con người, do con người tạo ra và không ngừng đổi mới, cải tiến. Về thực chất, tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động là sự phản ánh trình độ của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thường có những giai cấp nhất định đóng vai trò là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội, là bộ phận chính cấu thành lực lượng sản xuất.
Như vậy, quan điểm của các nhà triết học Mác - Lênin về nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất đã cho thấy vai trò quyết định của con người đối với quá trình sản xuất cũng như quá trình lịch sử - xã hội. Quan điểm này không chỉ bác bỏ những quan điểm duy tâm về con người mà còn là cơ sở khoa học để mỗi chúng ta có những nhận thức đúng đắn về vai trò to lớn của con người, nhất là người lao động đối với sự phát triển của lịch sử. Quan điểm đó có ý nghĩa to lớn trong việc nhận thức và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
2. Ý nghĩa của quan điểm Mác - Lênin về người lao động trong lực lượng sản xuất đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
Khi bắt đầu công cuộc Đổi mới, Đảng ta đã nhận thức được vai trò to lớn của con người trong phát triển kinh tế - xã hội. Qua mỗi kỳ Đại hội Đảng, nhận thức này ngày càng được bổ sung, hoàn thiện hơn. Ở Đại hội XI, với quan điểm coi “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”[7], Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”[8].
Với chiến lược đó, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Trong những năm qua, dân số nước ta không ngừng tăng nhanh khiến cho lực lượng lao động ngày càng dồi dào. Đây được coi là một trong những thế mạnh của đất nước và là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Người Việt Nam vốn được đánh giá là những người có tư chất thông minh, cần cù, nhạy bén, sáng tạo. Đây là những đặc điểm nổi trội của nguồn nhân lực nước ta và luôn được thế giới đề cao. Theo Báo cáo phát triển con người của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam có sự tăng nhanh và liên tục: “Năm 1995, Việt Nam mới chỉ đứng thứ 7/10 ở khu vực Đông Nam Á, 35/50 ở châu Á và 122/175 nước trên thế giới được xếp hạng theo chỉ số HDI thì đến năm 2001 đã vượt lên đứng thứ 6/7 ở khu vực Đông Nam Á, 28/36 ở châu Á và 109/130 trên thế giới”[9].
Tính đến ngày 1/4/2009, Việt Nam có 43,8 triệu người trong độ tuổi lao động đang làm việc, chiếm 51,1% dân số. Nước ta có một nguồn lao động trẻ với trên 70% lao động trong độ tuổi từ 15 đến 45. Không chỉ có vậy, chất lượng lao động của nước ta trong những năm gần đây cũng không ngừng được nâng lên. Cả nước hiện có 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên, chiếm 4,5 % lực lượng lao động; trong đó có 18.000 thạc sĩ, 16.000 tiến sĩ, trên 6.000 phó giáo sư và giáo sư phân bố cả trên lĩnh vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh10. Điều đó chứng tỏ chất lượng nguồn nhân lực của nước ta không ngừng tăng lên đáng kể, đáp ứng phần nào nhu cầu phát triển đất nước.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn nhiều hạn chế. So với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực như Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản,… chiều cao, cân nặng và thể lực của người lao động nước ta còn thấp. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo chưa cao. Theo thống kê 6 tháng đầu năm 2010, hiện nay cả nước chỉ có 17,2% số người lao động biết sử dụng máy tính. Một thực tế đáng lưu tâm là mặc dù số lượng lao động có trình độ cao như thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư và giáo sư ở nước ta không ngừng tăng lên qua các năm nhưng hiện có 70% số thạc sĩ và tiến sĩ không làm khoa học mà chuyển sang làm công tác quản lý, hành chính, sự vụ. Do đó, số bài báo của các nhà khoa học được đăng hàng năm ngày càng ít đi và chất lượng không cao. Hơn 72% sinh viên ra trường không có việc làm ngay hoặc phải làm trái ngành nghề11. Điều đó đã dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lao động đã qua đào tạo và tạo nên tình trạng thừa thầy, thiếu thợ đang rất nan giải ở nước ta hiện nay.
Hơn nữa, do mức dinh dưỡng cho người Việt Nam còn thấp nên nhìn chung, thể lực người lao động ở nước ta còn kém, mặt trí lực cũng còn nhiều hạn chế như phần lớn lực lượng lao động đều là lao động phổ thông, số lao động đã qua đào tạo còn ít, ít có điều kiện học tập để nâng cao tay nghề,… Những hạn chế đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nguồn nhân lực nước ta, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế tri thức nhằm rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trên cơ sở đó, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục, đào tạo
Giáo dục và đào tạo được xem là khâu then chốt quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Vì vậy, ở Đại hội XI Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”12.
Để giáo dục và đào tạo góp phần quan trọng phát triển nguồn nhân lực, Đại hội XI đề ra quan điểm: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục và đào tạo, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục... Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học”13.
Thực hiện đường lối chỉ đạo đó, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản như: Tiếp tục nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực; đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo; đổi mới công tác quản lý giáo dục một cách cơ bản và toàn diện cả về tư duy lẫn phương thức quản lý theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; xây dựng, chuẩn hóa đội ngũ giảng viên cả về số lượng và chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giáo dục; đầu tư hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo, cả nhân lực, vật lực và tài lực để đưa ngành giáo dục đào tạo thoát khỏi tình trạng chậm phát triển so với khu vực và thế giới, thực hiện đúng tinh thần “giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu”.
Thứ hai, nâng cao thể lực cho người lao động, cải thiện giống nòi
Thể lực của người lao động phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như di truyền, chất dinh dưỡng, môi trường sống, thể dục thể thao,… Do đó, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách nhằm cải thiện thể lực cho người lao động Việt Nam.
Trước mắt, cần tập trung cải thiện đời sống vật chất cho người lao động thông qua chế độ tiền lương đúng như tinh thần của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 mà Đảng và Nhà nước ta xác định: “Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội”14.
Cùng với việc nâng cao thu nhập cho người lao động, phải “tập trung giải quyết tốt chính sách lao động việc làm và thu nhập”,15 bởi tạo công ăn việc làm ổn định là điều kiện cần thiết để người lao động vượt khó, nâng cao mức sống, không ngừng hoàn thiện năng lực cá nhân để có thể thích ứng tốt nhất với những cơ hội mới và tình hình phát triển mới. Ngoài ra, cần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Cùng với đó, cần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống16.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh phong trào toàn dân rèn luyện sức khỏe, nâng cao sự dẻo dai và sức chịu đựng, từ đó cải thiện thể lực cho nguồn nhân lực. Đây là biện pháp ít tốn kém nhưng có tác dụng rất lớn đến việc cải thiện thể lực cho lực lượng lao động.
Thứ ba, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực
Một thực trạng bất hợp lý ở nước ta hiện nay là trong khi chất lượng lao động yếu kém, phần nhiều không qua đào tạo cơ bản nhưng hàng năm có hàng ngàn, hàng vạn sinh viên đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ra trường không có việc làm. Điều đó đã gây nên tình trạng lãng phí nguồn nhân lực có trình độ. Vì vậy, nhà nước cần nghiên cứu và đánh giá đầy đủ, chính xác về thực trạng nguồn nhân lực để có những chính sách sử dụng nguồn lực con người một cách hợp lý.
Nhà nước cần xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; xác định thật rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Ngày 19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 579/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 trong đó nêu rõ, mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Vấn đề hiện nay là cần hiện thực hóa Chiến lược bằng các biện pháp, hành động cụ thể.
Nhà nước cần căn cứ vào yêu cầu phát triển của các ngành và các vùng lãnh thổ để tổ chức, bố trí lại lực lượng lao động một cách hợp lý trên phạm vi cả nước theo hướng đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn. Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước và quốc tế cho đầu tư phát triển, nhất là những vùng, ngành, lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều lao động như: các vùng kinh tế động lực, trọng điểm ở ba miền, khu vực dân doanh, trước hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; kinh tế trang trại, hợp tác xã, làng nghề, xã nghề tiểu thủ công nghiệp,…; khu vực dịch vụ, nhất là dịch vụ thu hút nhiều lao động kết hợp khai thác tiềm năng, thế mạnh của đất nước và con người Việt Nam. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa để tạo thêm nhiều việc làm tại chỗ, góp phần giảm bớt áp lực về lao động ra các thành phố làm việc.
Nhà nước cần hoàn thiện và phát triển thị trường lao động, góp phần vào việc hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao chất lượng nguồn lao động cả về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kĩ thuật, kĩ năng tay nghề; giáo dục - đào tạo theo định hướng gắn cung với cầu lao động, đồng thời nâng cao hiểu biết về pháp luật, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp và nâng cao thể lực đảm bảo cung cấp đội ngũ lao động có chất lượng cả về thể lực lẫn trí lực, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Đây là một quá trình lâu dài với nhiều cơ chế, chính sách thích hợp, đòi hỏi có sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành và phải thực hiện ngay từ bậc phổ thông.
Đảng và Nhà nước cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối với việc sử dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học và chuyên gia thật sự có tài năng. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa tài thật và tài giả, giữa những người cơ hội và những người chân chính trong các cơ quan công quyền.
Thứ tư, luôn quan tâm đúng mức đến nhu cầu và lợi ích của người lao động. Lao động sản xuất vốn là một hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu của con người. Khi nhu cầu của con người được thỏa mãn sẽ nảy sinh vấn đề lợi ích. Có thể nói, lợi ích là phương tiện để thỏa mãn nhu cầu của con người trong những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Để không ngừng nâng cao tính tích cực của người lao động nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất, chúng ta cần phải thường xuyên quan tâm đến lợi ích của người lao động. Cần phải tác kết hợp một cách đồng bộ, thống nhất các lợi ích như lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị - tinh thần; lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể; lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài;… Có như vậy, chúng ta mới có thể tác động vào tính tích cực, tinh thần hăng hái tham gia lao động sản xuất, cống hiến xã hội của người lao động. Đó là cách vừa sử dụng con người một cách hiệu quả, vừa tạo điều kiện để phát triển con người. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, trong những lợi ích trên, lợi ích kinh tế và lợi ích cá nhân cần được ưu tiên vì nó là động lực trực tiếp và mạnh nhất tác động đến người lao động.
Những giải pháp trên có thể chưa thật sự đầy đủ nhưng thiết nghĩ sẽ góp phần đáng kể trong việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta đáp ứng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức.
Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực là một quan điểm đúng đắn, không chỉ kế thừa về mặt lí luận quan điểm của các nhà triết học mácxít về con người, về người lao động mà còn là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm và nắm bắt xu thế phát triển tất yếu của thời đại. Quan điểm đó chính là đường lối để Nhà nước ta có những chính sách cụ thể, đúng đắn, hợp lý trong việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong những năm tới đây.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia , Hà Nội.
2. Vũ Minh Hảo, Hoàng Xuân Hòa (2004), “Dân số và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế”, Tạp chí Cộng sản, số 709.
3. C.Mác - Ph.Ăngghen (1982), Tư bản, Phê phán khoa kinh tế - chính trị”, Tuyển tập, T.3, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Sđd, T.23.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, T.3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Sđd, T.4.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen (1998), Sđd, T.46, phần II.
8. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, T.38, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
* ThS.; Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
[1] C.Mác - Ph.Ăngghen (1982), Tư bản, Phê phán khoa kinh tế - chính trị, Tuyển tập, T.3, Nxb. Sự thật, H, tr.269.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd, T.23, tr.266.
[3] C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd, T.46, phần II, tr.215.
[4] C.Mác, Sđd, T.3, tr.260 - 261.
[5] C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd, T.4, tr.257.
[6] V.I.Lênin, Toàn tập, T.38, Nxb. Tiến bộ, M.1977, tr.30.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia , H. 2011, tr.76.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Sđd , H, tr.130.
[9] Vũ Minh Hảo, Hoàng Xuân Hòa (2004), “Dân số và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế”, Tạp chí Cộng sản, số 709, tr.65.
10 Theo Báo Nhân dân, ngày 30/5/2009.
11 Theo Báo Tiền phong, ngày 21/6/2010.
12 Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.77.
13 Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.131.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.124-125.
15 Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 227.
16 Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.228.